Jump to content

Advertisements




Thịt Chó - nên hay không nên?

Linh tinh

64 replies to this topic

#46 thatsat

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1361 Bài viết:
  • 4017 thanks
  • Locationvô cực

Gửi vào 31/01/2012 - 10:54

deleted

Sửa bởi thatsat: 31/01/2012 - 11:01


Thanked by 1 Member:

#47 PIANO

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2566 Bài viết:
  • 12072 thanks
  • LocationHome

Gửi vào 31/01/2012 - 11:23

Pi đọc được rồi và luôn sẵn sàng tiếp nhận mọi quan điểm.
Chúc bác Thất Sát+Hoá Quyền

Thanked by 1 Member:

#48 ryan88

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 7111 Bài viết:
  • 19142 thanks
  • LocationĐa Tình Tự

Gửi vào 31/01/2012 - 11:32

Má rãnh quá!!! về nhà cho con bú!!! Nhanh và ngay!!!

Thanked by 2 Members:

#49 Soleil

    Đoài viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPipPip
  • 2156 Bài viết:
  • 7406 thanks
  • LocationThảo nguyên xanh

Gửi vào 31/01/2012 - 11:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

thatsat, on 31/01/2012 - 08:03, said:

Con người tự cho mình là trung tâm của tự nhiên. Vậy là phân biệt đối xử với động vật, cây cỏ cũng có linh giác nhưng vẫn bị các sư măm như thường. Nên vấn đề không phải ở chỗ măm con gì. Dê chuột chũi đẻ khỏe chạy nhanh nên phải có sói diệt dê để cứu đồng cỏ khỏi bị sa mạc hóa (Tô tem sói). Sói dê hay người chỉ là một mắt xích đưa tự nhiên trở lại cân bằng. Nên đừng băn khoăn ăn hay không. Thích ăn thì ăn, không thích ăn thì không ăn. Nhưng giữ môi trường sạch sẽ cho người khác đỡ khổ. Nếu không bảo vệ môi trường cũng không sao, tự nhiên sẽ quay lại cắn trả nhanh hơn. Nhân quả là đó, không chạy đâu cho thoát.

I agree with you.

Tuy nhiên bản thân em ko thích ăn thịt chó tẹo nào cả, tn chả bao h có ý định rủ nhau đi ăn thịt chó cả !

Sửa bởi DungLe: 31/01/2012 - 11:38


Thanked by 1 Member:

#50 thatsat

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1361 Bài viết:
  • 4017 thanks
  • Locationvô cực

Gửi vào 31/01/2012 - 12:00

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

DungLe, on 31/01/2012 - 11:34, said:

I agree with you.

Tuy nhiên bản thân em ko thích ăn thịt chó tẹo nào cả, tn chả bao h có ý định rủ nhau đi ăn thịt chó cả !

Tôi cũng không ăn nhưng chẳng phải tử tế gì cho cam, mà vì dạ dày kém, thịt chó cao protein, ăn vào khó tiêu bụng đau.

Thanked by 3 Members:

#51 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 14/02/2012 - 17:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Hỏi: Quý vị vừa cho biết về môn học cây cỏ, vậy nơi đây trường ốc ra sao, công việc giảng dạy tiến hành như thế nào? Xin cho biết?

Trả lời: Chúng tôi giảng dạy cho con trẻ từ tấm bé về nhiều lãnh vực, như cách ăn uống cũng phải dạy - ví dụ khi ăn phải tập nhai kỷ, phải từ tốn, ngẩm nghĩ, chú tâm, phải đưa tư tưởng vào việc đang ăn. Tránh vừa ăn vừa nói, không được vừa ăn vừa nghĩ ngợi tới vấn đề nào khác… Môn học danh riêng cho thanh niên khi tới tuổi hai mươi là quan trọng hơn cả và khó khăn hơn cả. Tới độ tuổi này, người thanh niên trong bộ tộc được gởi tới một túp lều tranh hay một hang đá. Nơi đây vị trưởng lão sẽ chỉ dẫn phương cách học tập. Phải nói đây là phương cách tu tập để trở thành một người Kogi hoàn thiện có năng lực, biết sống và biết suy nghĩ thế nào cho hợp cách.Người thanh niên sẽ ngồi xếp bàn quay mặt vào vách để từ đó họ ngẩm nghĩ suy tưởng về con người mình, về thế giới tự nhiên, nghĩa là sư liên kết, ràng buộc, giửa con người và thiên nhiên giữa con người và cây cỏ, thú vật, ngày đêm, đất đai, rừng núi, sự kiên trì là điều cốt lõi và thời gian sẽ đánh giá được sự kiên trì. Do đó mà thời gian người thanh niên ngồi quay mặt vào trong nơi túp lều hay vách đá phải là 9 năm. Chín năm suy ngẩm nhiều vấn đề và cũng là thời gian để bản thân con người mình và thiên nhiên liên kết gần gũi nhau, biết rõ nhau, trở thành hợp nhất. Khi an trú ở một nơi hiu quạnh vắng vẻ như thế để tự suy gẩm, khám phá bản thân mình và khám phá thiên nhiên, người thanh niên này sẽ ăn rất ít và khi tu tập, họ chỉ ngậm vài lá cây, uống chút nước để giữ cho cơ thể đựơc an bình mà thôi. Thường thì vị trưởng lão sẽ đến giảng dạy theo một giờ nhất định nào đó. Vị nay sẽ hưởng dẫn người học trò về những điều gọi là bí mật của vũ trụ tự nhiên, về tâm thức về ý thức và hành động của chính bản thân mình. Sau 9 năm tu tập xét mình xét thiên nhiên như thế với thế ngồi "diện bích” (nhìn vô vách).

Khi người thanh niên bước vào tuổi 30, lúc đó họ đã trở thành một con người chửng chạc có khả năng “giao cảm với vũ trụ thiên nhiên”. Chính nhờ vậy mà dù sống nơi núi cao đầy sương và mây mù, dù trong rừng thẩm thâm u của rừng dày Nam Mỹ, họ vẫn biết được những gì đã và sẽ xảy ra trên thế giới. Ðây chính là câu trả lời vì sao chúng tôi sống nơi tận cùng mù mịt của địa cầu mà lại có thể biết những gì xảy ra ở bên ngoài như đã từng trình bày trong những lần giải thích cho quý vị về tình trạng bất an, đen tối, đầy nguy hiểm mà loài người đang gây ra trên thế giới...

Hỏi: Quý vị quan niệm hay biết rõ về vũ trụ như thế nào? ....

Trả lời: Sống hòa hợp với vũ trụ, thấm nhập vũ trụ vào với tâm thức mình thì ta sẽ thấu triệt, hiểu rõ được nhiều thứ trong đời sống. Lý do vũ trụ như là một tấm gương soi vĩ đại, từ đó phản ảnh mọi sự mọi việc, nên khi ta hoà nhập vào với vũ trụ là ta biết rõ những điều đã và sẽ xảy ra. Vì mình và vũ trụ là một nên khi biết rõ mình tức là biết rõ vũ trụ, tự nhiên.biết rõ vũ trụ tức là biết rõ các định luật của thế giới tự nhiên, trong đó có ta, các loài sinh vật nghĩa là tất cả Và khi đã hiểu rõ các định luật ấy rồi thì ta sẽ không bao giờ dám làm điều gì, dám nghĩ điều gì vượt ra ngoài hay trái ngược với các định luật ấy. Vì nếu làm trái với thiên nhiên là sẽ bị đào thải bị tận diệt.

Còn ý niệm về vũ trụ thì nhờ tĩnh tâm giao cảm với vũ trụ mà chúng tôi biết lúc vũ trụ chưa hình thành là một khoảng trống không - Cái trống không vô tận ấy chính là Mẹ Vũ trụ mà chúng tôi gọi là Kaluma. Mẹ Vũ trụ là một trạng thái tuyệt đối của Tâm thức - Mẹ vũ trụ không phải là đấng tạo hóa như loài người nghĩ. Chính nhờ cái tâm thức tan toả này mà phát sinh ra tư tưởng - Nhờ sự vận hành chuyển hoá của tư tưởng mà phát sinh ra tất cả mọi thứ như ta thâý ngày nay - Ðiều này mới nghe qua thì quá mơ hồ trừu tượng – Chỉ khi nào quý vị áp dụng phương thức suy gẩm như lối ngồi vào vách trong thời gian 9 năm thì khi đó tâm thức quý vị mới dễ hoà vào tâm thức vũ trụ - Lúc đó quý vị mới thấy rõ những gì tôi vừa trình bày. Như vậy cái Tâm là rất quan trọng - Mọi thứ đều do tâm tạo. Nhờ phương thức tĩnh tâm để giao cảm với vũ trụ mà chúng tôi biết trong vùng không gian của chúng ta thôi là có 9 thế giới phát sinh từ tâm thức - Mọi thứ nơi 9 thế giới ấy đều có cùng quy luật là sinh ra lớn lên, phát triển rồi chết. Những quy luật ấy còn có những chi tiết mà nếu loài người tự cho là văn minh tiến bộ tìm cách phá vỡ các quy luật thì hậu quả lại rất tai hại. Loài người hiện đang sinh sống nơi thế giới thứ 9. Ðiều quan trọng cần nhớ là thế giới này không phải dành riêng cho loài người mà còn cho mọi sinh vật – Vì thế đánh, bắt, giết hay ăn thịt các sinh vật tức là vi phạm quy luật tự nhiên. Nói về sự vi phạm quy luật tự nhiên thì thật ra loài người đã hành động trái với luật tự nhiên từ lâu rồi...


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Người Kogi



#52 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 946 thanks

Gửi vào 17/02/2012 - 19:12

Bài này tặng cho người Công Giáo đã vu oan cho Dog rồi làm thịt nó vô tư từ trước tới nay mỗi khi tới dịp:
"
Trưa hè thành phố Jerusalem, trời nóng như thiêu như đốt, đời sống của con Vện có lẽ sắp chấm dứt. Bánh xe bò nặng nề lăn dần đến. Đôi mắt lờ đờ cố mở lớn, Vện nhận định chỗ bánh xe sẽ lăn tới, bị bệnh và đói khát từ nhiều ngày qua, nó đứng lên không nổi, gom toàn lực nó trườn mình né tránh, chân trước bên phải chỏi xuống nền đất. Chỉ thân hình Vện tránh khỏi, bánh xe nặng trĩu nghiền nát ống quyển ! Đau điếng, nó kêu rên thảm thiết ai oán, sức lực không còn, tiếng rên xiết khàn khàn trong cổ họng. Không ai để ý đến con vật khốn cùng. Vện cố gắng gần nửa buổi mới lết được vào lề đường, núp trong kẽ đá nơi vách tường đổ nát. Nó nương nhờ sự che chở của những viên đá vô tri nhưng đối với nó đầy tình thương mong đợi.

Vện là con vật khốn khổ bơ vơ khi chủ nó quá già yếu đã qua đời. Không còn ai nuôi nó, nó trơ xương, lông ngà bạc, lốm đốm chốc lở, vằn vện phai nhạt màu xám tro hôi hám. Nó là biểu tượng của sự xấu xí ti tiện. Nó lang thang, lê lết mọi nơi. Nó bị người ta xua đuổi, ai cũng có thể đánh nó chết: Nó là con chó ghẻ. Hơi thở đứt quãng thoáng nhẹ như tơ. Ống chân sưng dần, bầm đen. Cơn sốt lên cao, toàn thân tê liệt, con Vện bình thản chờ tử thần.


Nắng thiêu đốt đá cát hừng hực như hỏa lò. Vện nhìn mặt trời xế trưa gay gắt, nó chỉ thấy một màu máu bao trùm không gian. Bỗng nhiên Vện cảm thấy mát rượi. Thân hình nó nằm gọn dưới bóng người. Một người cao cao vừa dừng lại nơi Vện nằm. Y phục ông đơn sơ, tinh khiết, đâu đây phảng phất mùi hương thơm huyền diệu làm cả không trung mát lạnh tựa gió xuân. Ông hiền hòa nhìn Vện. Ông cúi xuống đưa tay sờ vào vết thương của nó. Vện cảm thấy một luồng sinh khí cực mạnh chạy khắp thân mình. Nó vùng đứng lên, vẫy đuôi. Sung sướng, nó ngả đầu vào chân người trìu mến. Cơn bệnh, vết thương đã tan biến. Nó tung tăng, vui mừng, chạy nhảy quanh ân nhân. Nhiều người đứng sát vào lề đường thầm thì: “Phước lành, Ngài đã ban phước lành”. Đúng: Chúa đã ban phước lành mầu nhiệm, người vừa cứu con Vện chính là Đức Chúa Giê-su.

Ngài ngồi xuống phiến đá bên vệ đường, âu yếm xoa đầu con Vện. Từ ngày chủ nó chết đi, bây giờ nó mới nhận được tình thương trìu mến. Bất thình lình một đám người ùa tới, người nào cũng cầm một cục đá, có người còn cầm gậy gộc. Con Vện quá sợ hãi, nó liền chạy trốn theo phản ứng tự nhiên vì nó đã từng bị nhiều người xua đuổi một cách tàn nhẫn. Như đã có ý đồ sẵn, họ xô đẩy một người đàn bà lem luốt, quần áo tả tơi, đám đông dừng lại trước mặt Đức Chúa, họ đứng thành hình bán nguyệt, người đàn bà bị họ xô té nằm dưới chân Ngài. Một người hăng hái nhất trong bọn đến đứng trước mặt Ngài, tay y chỉ người đàn bà, lớn giọng nói cho tất cả đều nghe: "Con đàn bà nầy can tội ngoại tình, vậy theo luật Mai Sen, con mụ nầy phải bị ném đá cho đến chết. Ông nghĩ sao ?" Đức Chúa rất đau lòng nhìn người đàn bà phủ phục dưới chân Ngài. Y thị gục mặt sát đất, không dám nhìn ai, chỉ nức nở nghẹn ngào, y thị không phản đối, tất nhiên y thị đã nhận tội, không còn nghi ngờ gì nữa. Đám đông nhìn chằm chằm Đức Chúa để xem Ngài phân xử ra sao vì đây là một cái bẫy do bọn giáo phẩm Do Thái Giáo tổ chức ra một cuộc đấu tố để gài Ngài vào trong hoàn cảnh nguy hiểm, nếu quyết định tha thì phạm tội chống luật Mai Sen, còn giết thì phản lại giáo điều nhân nghĩa bác ái của Ngài. Bầu không khí càng lúc càng nghẹt thở, từ lúc đám đông tập họp cho đến bây giờ Ngài vẫn không nhìn họ, Ngài tiếp tục dùng ngón tay viết những giòng chữ trên đất. Sau cùng Ngài đứng lên, nhìn thẳng vào mặt từng người, Ngài nói thật chậm rãi:

"- Thế còn người đàn ông cùng phạm tội với người đàn bà nầy ở đâu ? Hẫy dẫn hắn đến đây! Nay ta hỏi từng người hiện diện ở đây, ai là kẻ chưa từng phạm tội ? "


Đoạn Ngài tiến lại phía người đàn ông hùng hổ lúc nảy:

"- Đây viên đá thật lớn, ta đưa cho ngươi, ngươi là người đầu tiên, ngươi hãy ném đá vào người đàn bà đó đi, nếu ngươi tự xét thấy mình không hề phạm tội !"


Người đàn ông đang chăm chú nhìn Đức Chúa, bị cật vấn bất ngờ, y sa sầm nét mặt, rồi lấm lét đưa mắt nhìn quanh một vòng những người hiện diện như muốn cầu cứu, vì y bị dồn vào thế bí. Y cũng như tất cả đám đông chỉ biết phỉ báng, chỉ trích người khác để lấy phần phải về mình, để tỏ ra ta đây cương trực, chỉ biết thực thi đạo lý, làm ra vẻ ta đây bảo vệ đạo pháp cốt để che dấu tội lỗi thầm kín của mình. Người đàn ông thấy ai cũng im lặng nhìn xuống đất, y lấy hết can đảm, đưa trả viên đá lại cho Đức Chúa, rồi y hối hả bỏ đi, không một lời từ biệt. Đức Chúa tiến đến người thứ hai, Ngài định đưa viên đá cho y, nhưng y khoác tay, quay mặt bỏ đi liền. Chỉ trong chốc lát đám đông giải tán thật nhanh cũng như lúc họ kéo đến. Bây giờ người đàn bà mới dám ngước nhìn Đức Chúa, cô ta van lơn xin Đức Chúa tha tội. Với một giọng thật ân cần, Ngài phán rằng:

"- Họ đã đi hết rồi, sao ngươi không đi đi ? nên nhớ đừng phạm tội nữa."

Người đàn bà vừa thoát được cái chết thảm khốc, cô ta nhích lên phía trước, kính cẩn hôn chân Đức Chúa rồi chậm rãi nhìn trước mặt mạnh dạng đi thẳng, không còn mặc cảm hèn mọn xấu hổ. Đức Chúa không dùng hình phạt nhưng Ngài cảm hóa con người để tránh khỏi tội lỗi.



Trời về chiều, trên con đường xa thẳm, Đức Chúa vẫn bước đều, Ngài không biết rằng có một người đang ngồi chễm chệ trên chiếc xe song mã gần đó, quan sát thật kỹ từng cử chỉ của Ngài. Người đàn ông oai vệ đó là quan toàn quyền Phi La Tử được đại đế Sê Sa cử đến trấn nhậm xứ Ít-xờ-ra-ên nầy. Cạnh xe ông là viên đội trưởng cận vệ trên tuấn mã; mắt y đăm đăm nhìn thẳng như một pho tượng, gương mặt rám nắng, đầu đội mũ đồng vàng sáng chói có chóp cao đỏ ối, giáp trụ hùng vĩ, tay mặt gò cương ngựa, tay trái luôn luôn nắm chặt trường kiếm đeo bên mình như lúc nào cũng sẳn sàng lâm trận; riêng toán hùng binh đứng thật xa phía sau viên đội trưởng để khỏi gây huyên náo. Tất cả giữ im lặng, cho đến khi Chúa Giê-su đã đi khuất, quan toàn quyền mới ra lệnh quay về.

Con Vện tự biết số phận ti tiện của nó, nó sống nép mình trong những hốc đá nơi sườn đồi, đêm khuya mới dám len lén đến các đống rác bắt chuột, sống qua ngày. Một đôi khi, Vện ngữi thấy mùi thơm huyền diệu, nó chỉ dám đứng thật xa nhìn Ngài qua kẽ đá, chiêm ngưỡng hình dáng thánh thiện chan hòa. Hằng ngày Đức Chúa đi giảng đạo lý, chữa bệnh cứu người. Ngài phải chống lại lũ sát nhân, đạo đức giả, chuyên ném đá giết hại người cốt để che dấu những tội ác tầy trời của chúng. Từ ngày Ngài xuất hiện nơi đây bọn sát nhân và những lũ mượn danh thần thánh để bóc lột dân chúng không thể nào yên thân, chúng vô cùng xấu hổ vì bị Ngài vạch trần sự gián trá của chúng. Chúng phải tìm cách diệt trừ Đức Chúa cho bằng được, chúng vu cáo Ngài mưu đồ lật đổ triều đại La Mã hùng mạnh của đại đế Sê Sa đang thống trị cả Âu châu và toàn vùng Địa Trung Hải.

Đức Chúa bị sa lưới giặc do những lời cáo gian và nhân chứng gian.

Bản án tử hình với Đức Chúa phải được thi hành. Quan toàn quyền Phi La Tử đã quay mặt bỏ đi, ông không lòng nào nhìn thấy Đức Chúa thọ hình. Trên yên tuấn mã giữa hai hàng vệ binh La Mã uy nghiêm, khôi phục chỉnh tề áp giải tử tội đến pháp trường, viên đội trưởng quát thét ra lệnh Đức Chúa phải vác thập tự giá lên ngọn đồi để bị hành quyết trên đó. Không đợi chúng nói nhiều, Ngài gắng sức hiên ngang dấn bước. Hai chân bị xiềng sắt cứa trầy rướm máu, Ngài lê từng bước vì thập tự giá quá nặng, đường dốc đầy sỏi đá càng lúc càng khó đi. Dọc đường một vài người bày tỏ cảm thương Ngài. Nhưng hầu hết dân chúng hân hoan hả hê vì chính họ đã yêu cầu quan toàn quyền Phi La Tử giết Ngài đi, vì dân chúng muốn cứu tên sát nhân Ba Ra Ba cùng bản tính man rợ như họ.

Quan toàn quyền Phi La Tử, người đang cai trị nước Do thái thấy Chúa Giê-su vô tội. Đức Chúa bị phao vu đủ thứ tội trạng, đủ thứ huyền thoại thêu dệt ra với dụng ý và mưu đồ đen tối. Ông Phi La Tử muốn thử nghiệm xem lời đồn đúng hay sai, ông mới cho giải Chúa Giê-su đến vua Hê Rốt để tùy nghi xử lý. Vua Hê Rốt là ông vua địa phương được chính quyền La Mã cho lưu lại tại vị cho yên lòng dân. Bọn vô liêm sĩ luôn luôn phao ngôn rằng vua Hê Rốt tìm giết Chúa Giê-su khi Ngài còn là một hài nhi, chúng còn phao ngôn vua Hê Rốt đã giết tất cả trẻ sơ sinh cùng trang lứa với ông Giê-su, đây chỉ là sự bịa đặt ngu dốt bắt chước theo huyền thoại Mai Sen lúc sơ sinh. Vì nếu thật sự vua Hê Rốt có ý đồ giết Chúa Giê-su, thì bây giờ Ngài là một tên tử tù, chân tay bị xiềng xích, chỉ cần một cái vẫy tay của vua ra lệnh xử tử là nhà vua thực hiện được ý nguyện đó, nhất là ông đã được quan toàn quyền cho phép. Lịch sử ghi rõ vua Hê Rốt thấy Đức Ngài không hề là một sự đe dọa ngai vàng của vua, cho nên vua Hê Rốt không muốn giết Chúa Giê-su mà lại cho giải giao Ngài về cho quan toàn quyền.

Ông Phi La Tử quyết định tha Đức Giê-su vì ông không thể nào giết một người tận tụy hy sinh tất cả cuộc đời để cứu giúp biết bao nhiêu người và còn biết bao nhiêu người cần được Ngài cứu giúp. Họ xúm xít quanh Ngài. Người nào cũng cầu xin Ngài ân huệ. Ngài chưa hề từ chối một ai, Ngài là đại từ, đại bi, và chắt chắn đây là một người thanh khiết, chân đi đất, không nhà không cửa, đứng giảng thuyết đạo lý dưới gốc cây ô liu, không màng danh lợi; chính mắt ông trông thấy và ông đã tự hỏi tại sao lại có con người thánh thiện lạ lùng như vậy? Ông Phi La Tử cũng không tin lời phao ngôn cho rằng Đức Giê-su tự xưng mình là con của Đấng Tạo hóa, vua trên trời, vì ông từng thấy Chúa Giê-su chân đi đất thì không lẽ cái ngai vàng của cha Chúa Giê-su cũng để cho những người đi chân đất như ông ta ngồi lên ? Quan toàn quyền phải làm một việc trớ trêu, ông phải giải tội cho một can phạm bị kết án tử hình vì bị truy tố tội phản nghịch, can phạm nầy lại không hề mở miệng biện bạch cho mình một lời nào. Làm sao tha chết cho tử tội đây ?


Nhân ngày lễ Vượt qua của La Mã, ông Phi La Tử nghĩ ra được phương cách độc đáo để cứu Đức Giê-su khi ông đưa ra quyết định có vẻ vô tư, đứng trên khán đài, ông mĩm cười ra lệnh cho trình diện trước dân chúng Do thái cùng lúc Chúa Giê-su và tên Ba Ra Ba, ông dõng dạc tuyên bố:

"- Ta sẽ tha một người và chỉ giết một người trong hai tử tội; dân chúng được tùy ý quyết định tha ai, giết ai, hai tử tội là tướng cướp Ba Ra Ba và Chúa Giê-su của các ngươi, ta chỉ tha một người thôi".

Ba Ra Ba là tên giết người cướp của vô cùng gian ác, mà đôi bàn tay nhuốm đầy máu của biết bao nạn nhân vô tội. Khi đem hai người ra cho dân Do thái lựa chọn là tên đồ tể nầy và Chúa Giê-su, thì hậu ý của quan toàn quyền đã quá rõ, ông đinh ninh rằng dân Do thái sẽ xin tha Chúa Giê-su và yêu cầu giết tên ác ôn Ba Ra Ba.
Từ khi ra lệnh cho trình diện hai tử tội trước công chúng, ông Phi La Tử đi đi lại lại mĩm cười khoái chí về mưu cao của mình thế nào cũng giải thoát Chúa Giê-su một cách danh chính ngôn thuận, thể theo ý dân, mà theo ông, một chính trị gia kiêm chiến lược gia siêu việt, sự cai trị gồm cả nhu lẫn cương, ông uy nghiêm khiến người dân kính nể nhưng không khiếp sợ như thấy hùm beo, ông tha thứ hiền hòa nhưng không nhu nhược. Trong tinh thần cởi mở đó, để hủy bỏ bản án tử hình nghiêm trọng: hể dân chúng hô tha Đức Giê-su thì ông sẽ tha, chỉ giản dị thế thôi, ông sẽ cứu được người vô tội, vừa thể theo ý dân mà cũng do lòng quảng đại của ông ân xá cho tử tội, như vậy ông cũng không làm mất đi quyền uy của tòa án và của chính quyền La Mã đang trị vì.
Trên hàng ghế dành cho các vị chức sắc địa phương, người ngồi ở ghế danh dự là vua Hê Rốt, hôm nay ông cũng đến dự sự thi hành bản án tử hình lịch sử do người La Mã quản nhiệm. Khi nghe quan Toàn quyền Phi La Tử tuyên bố "tha một người và giết một người" vua Hê Rốt gật đầu, vua mĩm cười nhìn quan Toàn quyền Phi La Tử, với nét mặt vô cùng thán phục về cái ý định tuyệt vời để giải thoát cho Đức Giê-su.


Hốt nhiên ông Phi La Tử đứng khựng lại, ông hết sức ngạc nhiên khi thấy hai tử tội vừa bước ra trình diện thì dân chúng Do thái đồng thanh hô to đòi tha Ba Ra Ba và đòi giết Chúa Giê-su. Quan toàn quyền tưởng mình nghe lầm. Đức Chúa chưa bao giờ hại ai, trái lại Ngài đã cứu bao nhiêu kẻ khốn cùng khỏi bệnh tật hiểm nghèo, người đau yếu tìm lại sức khỏe, người mù tìm lại ánh sáng, người cùi lành hẳn mọi vết lở ... Dân chúng không mấy quan tâm về những ân huệ đó; theo luật Mai Sen (tên nầy thuộc dòng họ Lê vi, ngày xưa tự xưng là đại diện của Chúa Trời) để lại từ hơn một ngàn năm trước, trong Kinh Sáng Thế Ký: Chúa Trời phán truyền rằng “Kẻ nào chống lại hay không tham gia việc ném đá thì phải bị giết chết.” Vì mù quáng tuân theo qui luật Mai Sen sắt máu nầy cho nên họ hô hào đóng đinh Đức Chúa giữa thanh thiên bạch nhựt chứ không để cho người La Mã có thể lén lút tha Ngài. Tên Ba Ra Ba mới đích thực là thủ lãnh của cái đám dân nô lệ đó, cũng như ngày trước, khi nước Ít-xờ-ra-en còn độc lập, dân chúng đã tôn thờ vua David, một tên hôn quân vô đạo, nó đã giết chồng để đoạt vợ người, thế mà cái giống dân lạ lùng đó lại tôn vinh tên hôn quân David, mặt người dạ thú, lên làm minh chủ ngợi ca và hãnh diện đời đời cho đến cả ngày nay. Cái giống dân lạ lùng đó bị bọn giáo phẩm lường gạt, nói là dân Do thái là dân được Chúa Trời tuyển lựa, cho nên phải thờ phượng Chúa, phải đem dâng cúng thật nhiều lễ vật vào đền thờ của Chúa, cúng ít thì bị bọn giáo phẩm mượn danh Chúa mà chửi chúng như chửi chó, một tên giáo phẩm là Gi-đê-ôn còn bảo chúng phải lè lưỡi liếm nước uống như chó thì mới được Chúa Trời tuyển chọn, thế mà chúng cũng nghe theo, còn đem chép điều nầy vào Thánh Kinh vô vàn kính yêu! Thánh Kinh ghi rõ cả ngàn lần là Chúa Trời bắt dân Do Thái phải đi chém giết hết tất cả các dân tộc khác, cướp đất cướp của để đem về chia chác với Chúa Trời (đưa vào nộp đền thờ cho các giáo phẩm Lê-Vi hưởng lạc). Cho nên khi Đức Giê-Su giảng nhân nghĩa, tình thương bác ái thì có khác gì chửi cha chúng nó, chúng nó yêu cầu giết Ngài là lẽ đương nhiên.


Bây giờ đứng trước thực tại phũ phàng, quan toàn quyền Phi La Tử sửng sờ tê tái, ông ngồi lặng yên, thu người lại trên ghế bành thật lâu. Ông không hiểu tại sao nơi pháp đình Chúa Giê-su không biện bạch, và ngay cả bây giờ trước mặt ông, Ngài vẫn không biện bạch chống lại những kẻ đã vu cáo Ngài.
Quan toàn quyền đã từng vào sanh ra tử trăm trận thư hùng, đoạt bao chiến công hiển hách, nhưng hôm nay lần đầu tiên trong đời, ông là người thua cuộc, thất bại chua cay. Ông, cũng như bao thế hệ trước và bao thế hệ sau, cứ lầm tưởng người Do thái cũng có nhân nghĩa, liêm sĩ như mình, thì đương nhiên dân Do thái phải xin tha Chúa Giê-su và đòi giết Ba Ra Ba. Sự thật trước mắt hết sức phũ phàng. Ông không còn cách nào cứu Chúa Giê-su được nữa: Ông đã hứa và phải thi hành những gì đã hứa, tức là ông phải giết người mà dân Do thái đã công khai lựa chọn minh bạch. Chính kế hoạch cứu người của ông đã trói tay ông, đã đưa ông vào ngõ bí thảm thương! Ông phải hạ lệnh giết người vô tội mà sinh mạng đang nằm trong vòng quyền lực tối thượng của ông. Ông đã nghĩ ra phương cách tuyệt hảo để mong cứu thoát một người thánh thiện bị hàm oan, nhưng ông đã thất bại ê chề. Tiếng hô hào của dân chúng đòi phải giết Chúa Giê-su là những đòn chùy ngàn cân đánh vào người ông đau đớn từng khớp xương thớ thịt.



Ngao ngán và tuyệt vọng ông Phi La Tử bảo quân hầu mang đến cho ông thau nước bằng đồng thật lớn, đặt trên giá gỗ. Quan toàn quyền đứng lên, toàn thể cử tọa im phăng phắc trong bầu không khí nặng trĩu bóng tử thần. Ông Phi La Tử trịnh trọng giơ hai tay ra phía trước, rồi từ từ ông vốc nước rửa tay ba lần thật kỹ trước sự chứng kiến của toàn thể các vị chức sắc địa phương, giữa ba quân, trước toàn thể dân chúng; Ông dõng dạc tuyên bố:
"- Với hành động trang nghiêm rửa tay của tôi, đây là sự tượng trưng không liên quan, tôi minh chứng trước lịch sử rằng cái chết của ông Giê-su không hề liên quan đến người La Mã. Bàn tay tôi trong sạch không có nhúng vào máu người nầy."


Ông thật không hổ danh là đại diện tài đức tín cẩn của đại đế Sê Sa. Quan toàn quyền đã quay mặt đi với cõi lòng tan nát, từ tay mặt cuả ông chiếc khăn trắng hững hờ rơi xuống đất, đó là hiệu lệnh bắt đầu thi hành bản án tử hình!

Đức Chúa không bao giờ lưu ý đến dã tâm của bọn người đòi giết Ngài. Ngài cũng không bao giờ quan ngại đến sự sống còn của riêng mình. Ngài là hiện thân của tình thương và vị tha, có phải chết đi để bảo vệ tinh thần cao quí ấy thì Ngài cũng không nề hà, không thể nào tránh khỏi nhục hình trong một xã hội vô lương mà Ngài đã nguyện giáng trần cứu rổi. Không có một cá nhân nào, không có một tòa án nào ở thế gian nầy có thể phán xét Ngài. Ngài phải chấp nhận cái chết để thức tỉnh lương tâm nhân loại.


Ngài gắng sức vác thập tự giá nặng trĩu, qua mỗi chặng đường nhìn lại các tông đồ yêu dấu, Ngài thấy họ đã hoàn toàn chối bỏ Ngài. Sợ bị liên lụy, họ che mắt, bịt tai, xa lánh. Sau nầy bọn họ sợ bị bắt giết, họ còn phịa ra Ngài tự xưng là Chúa Con! Ngài có bao giờ tự xưng là Chúa Con đâu, làm sao Ngài là con của cái con quỉ tự xưng là Chúa Trời chuyên bóc lột dân Do Thái như chó lợn. Khi Ngài chết rồi thì bọn tông đồ đặt vào miệng Ngài câu gì chả được. Đau đớn hơn nữa những người đã từng được Ngài cứu giúp, chữa cho lành bệnh tật, họ cười reo trước cảnh khốn cùng của Ngài đang lê bước trên con đường mòn đưa đến pháp trường. Không phải Đức Chúa không thể tự giải thoát cảnh đày đọa tù ngục thảm hình, nhưng cỏi lòng tan nát thê lương, Ngài chấp nhận tuân hành bản án, bản án cay nghiệt của thế thái nhân tình dành cho riêng Ngài, vô cùng thấm thía.

Con đường lên dốc nơi sườn đồi càng lúc càng khó đi, chân Đức Chúa vướng phải một viên đá, Ngài vấp ngã chúi, Ngài gắng gượng đứng dậy, nhưng thập tự giá quá nặng với lại sức Ngài đã kiệt quệ. Ngài cố gắng hết sức cũng không đứng lên nổi. Tên lính La Mã áp giải cầm roi da vừa la hét vừa quất vùn vụt lên đầu, lên thân Ngài, y hét bảo Ngài phải đứng lên. Thình lình một bóng xám phóng nhanh như một mũi tên lao đến chụp vào người lính La Mã. Y không kịp trở tay, hai giòng máu phun ra từ cổ họng. Y té ngữa dãy dụa vì y bị con Vện tấn công bất ngờ. Con Vện núp trong hốc đá, nó thấy Đức Chúa bị đánh đập tàn nhẫn, nó lựa thế chồm lên cắn cổ họng người lính, chớp nhoáng, chuẩn đích. Nhiều tiếng la hốt hoảng, binh lính La Mã ùa chạy đến dồn dập. Đức Chúa buông cây thập tự giá ra, Ngài gom tàn lực đứng ngay dậy, tay trái Ngài khoác khoác yếu ớt ra dấu và rán kêu thét ra lệnh cho Vện ngừng cắn. Nhưng đã trể, con Vện không nghe thấy tiếng yếu ớt của Đức Chúa bị lấn át bởi những tiếng huyên náo ầm ỷ la hét của quân lính và dân chúng. Người lính giãy giụa, hai tay cứng rắn nổi gân cuồn cuộn cố đẩy đầu con Vện ra, sức lực y yếu dần. Viên đội trưởng từ trên tuấn mã phóng trường kiếm về phía con Vện. Như một tia chớp, kiếm thép sáng loáng xé gió cắm phập ngay giữa lưng con Vện lút đến cán, mũi kiếm lòi ra phía trước ngực, ghim trúng đá tóe lửa. Răng nanh Vện vẫn cắn chặt cổ người lính, y buông roi da nằm bất động, con Vện kêu khẻ rồi ngã lăn ra đất, nó chỉ còn kịp giương đôi mắt lờ đờ nhìn Đức Chúa lần cuối. Tất cả diễn biến quá nhanh, chỉ trong chớp mắt mà máu loang nhuộm đỏ cả quãng đường. Sự can đảm của con Vện làm tất cả mọi người đương trường sửng sờ. Sự phản bội của dân chúng không làm Đức Chúa phiền lòng, Ngài dửng dưng trước sự từ bỏ của tông đồ, nhưng bây giờ Ngài vô cùng đau xót, hai hàng lệ tuôn rơi khi Ngài nhìn ánh mắt can trường đầy luyến ái của Vện dành cho Ngài trước khi lìa đời.


Viên đội trưởng ngồi yên trên tuấn mã như một pho tượng cũng phải rúng động trước tấm lòng hy sinh của con Vện. Năm ngoái khi theo quan tòan quyền Phi La Tử đi tuần hành, y đã thấy con vật khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường thì được Đức Chúa cứu cho lành bệnh, với sự suy nghĩ hạn hẹp của con vật là phải chống lại bất cứ ai hành hạ ân nhân của nó, nó phải bảo vệ ân nhân cho đến hơi thở cuối cùng. Vô cùng cảm kích, viên đội trưởng không còn dám để binh lính hành hạ Đức Chúa, y vừa thoáng thấy một người vặm vỡ lẩn trốn sau đám đông, y cho gọi người đó lại, y thấy nó run rẩy xanh mét lắp bắp xưng tên là Si Môn. Viên đội trưởng ném cho nó một đồng tiền để thuê nó vác thập tự giá cho Đức Chúa lên đồi. Toán lính La Mã vẫn giữ trật tự im lặng tiến bước, thong thả áp giải tử tội đến pháp trường. Phần việc khiêng thây người lính và con Vện được giao cho dân Do thái nô lệ phụ trách chôn cất trịnh trọng. Binh lính La Mã xem con Vện như một chiến sĩ, nó đã hy sinh, chết oai hùng khi chiến đấu vì nó hiểu biết điều ân nghĩa cao cả.


Trên đỉnh đồi cao, mây sầu ảm đạm, gió oi ả rít từng cơn thê lương, trời tối mờ, ngày sắp tàn, bóng đêm dâng lên từ các thung lủng, Đức Chúa đã tắt thở, khô héo, sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Quân lính La Mã đã thi hành nghiêm chỉnh bản án tử hình.


Nhưng kìa về hướng thành phố Jerusalem nền trời bỗng sáng rực, trên áng mây hồng, hình dáng một người cao cao, đôi mắt hiền hòa, y phục đơn sơ tinh khiết, đâu đây phảng phất mùi hương thơm huyền diệu làm cả không trung mát lạnh tựa gió xuân. Dựa sát chân Ngài là con Vện. Nó vĩnh viễn không lìa xa Ngài. Đầu ngẩng cao, nó hãnh diện rạng rỡ với bộ lông vàng ánh có những vằn đen đậm nét, nó oai vệ như một mãnh hổ. Nó không bao giờ muốn trở lại nơi gian ác, vô lương, tanh hôi đê tiện bên dưới.
"

Sửa bởi minhduc: 17/02/2012 - 19:18


#53 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 17/02/2012 - 20:56

Kinh Thánh nói nếu ăn thịt thì chỉ nên ăn những con Nhai Lại và có Móng Chẻ Hai . Còn cá thì chỉ ăn con nào có Vảy .Vì mấy con đó Tinh Sạch . Côn trùng thì không nên ăn mấy con bay từng đàn , vì mấy loài đó không Tinh Sạch . ( Phục Truyền 14 : 4 đến 14 : 21 )

Thanked by 2 Members:

#54 LyTraDa

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 725 Bài viết:
  • 3689 thanks
  • LocationQuán Cafe

Gửi vào 18/02/2012 - 21:57

Ăn ở đâu thì ăn, đừng ăn ở USA, nó biết là vô tù chơi mấy tháng đợi ra tòa xử tiếp. Có mấy ông Việt qua Mỹ thèm thít chó quá đi vô Animal Shelter xin chó về nuôi, người ta thấy lạ tại vì cứ xin hoài, cuối cùng biết ra tại sao, vô tù cả đám.

Thanked by 4 Members:

#55 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 19/02/2012 - 21:52

xứ văn minh có khác , chậc , ta còn mọi rợ quá =))

#56 maichau

    Ban Từ Thiện

  • Ban Từ Thiện
  • 88 Bài viết:
  • 586 thanks

Gửi vào 02/04/2012 - 11:38

Nghe nói bên Mỹ, hồ sơ bệnh lý của chó, ngoài cái tên thì cái họ là họ của người chủ gia đình. Xét ra, họ xem chó như một thành viên của gia đình rồi! Ở VN mình, mỗi lần đi Củ Chi thấy nhiều người chở một lồng chó lên Sài Gòn bán thịt, hình ảnh đó khiến tôi chạnh lòng.

Cuộc sống là một sự lựa chọn, và mỗi người có quyền chọn cách sống của mình trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Cá nhân tôi, không bao giờ nghĩ đến việc phải ăn thịt con chó nếu tôi có điều kiện để ăn những thứ khác...

Thanked by 1 Member:

#57 TranTienNam

    Bát quái viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 992 Bài viết:
  • 1202 thanks

Gửi vào 02/04/2012 - 12:54


Sống ko ăn thịt chó
Chết hông có mà ăn


Thanked by 3 Members:

#58 Libra

    Chấn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4368 Bài viết:
  • 18493 thanks

Gửi vào 02/04/2012 - 12:57

Chó là con vật thủy chung, là bạn, không ai ăn thịt bạn

Thanked by 2 Members:

#59 Luv

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 95 Bài viết:
  • 199 thanks

Gửi vào 02/04/2012 - 13:06

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ThanhLongHoaCai, on 17/02/2012 - 20:56, said:

Kinh Thánh nói nếu ăn thịt thì chỉ nên ăn những con Nhai Lại và có Móng Chẻ Hai . Còn cá thì chỉ ăn con nào có Vảy .Vì mấy con đó Tinh Sạch . Côn trùng thì không nên ăn mấy con bay từng đàn , vì mấy loài đó không Tinh Sạch . ( Phục Truyền 14 : 4 đến 14 : 21 )

Theo ông Steven Rosen đã viết, trong quyển sách Thực phẩm cho Linh hồn (Food for the Spirit): "Những vị linh mục Thiên Chúa giáo thời đầu tiên đã theo phép ăn không thịt... nhiều nhóm Thiên Chúa giáo thời đầu tiên ủng hộ cách sống không dùng thịt. Thật ra, trong các bài viết của Tòa Thánh thời trước đã cho thấy sự ăn thịt không được chính thức cho phép cho đến thế kỷ thứ 4, khi Hoàng đế Constantine quyết định rằng, bản dịch Thiên Chúa giáo của nhà vua sẽ trở thành bản dịch của tất cả mọi người. Từ đó, suy diễn rằng Thánh Kinh cho phép ăn thịt đã trở thành tín điều chính thức của đế quốc La Mã, và những người Thiên Chúa giáo ăn chay phải tu hành trong bí mật, bằng không họ sẽ bị kết tội phản giáo và bị giết. Có nguồn tin rằng Constantine đã đổ chì nấu chảy vào cổ họng của họ nếu họ bị bắt được".

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi Hannah: 02/04/2012 - 13:08


Thanked by 3 Members:

#60 KingGoldLight

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 572 Bài viết:
  • 562 thanks

Gửi vào 03/04/2012 - 20:41

Sống ở đâu thì theo ở đó, âu cũng không nằm ngoài vòng quy luật. Tạo hóa sinh ra vậy, với lại thịt chó cũng ngon mờ, không ăn thì hơi phí

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:
AXE





Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |