Xin được type tiếp phần trích trong "Tam mệnh thông hội" về Canh, Tân để tiện theo dõi :
Canh: Dương Kim – thích hành vận Mộc, Hỏa ở phương đông, nam
Thuộc tính của Canh Kim là Dương, là một trong các kim loại như vàng, bạc, đồng, sắt, hấp thụ tinh hoa của mặt trời mà hình thành, cần có Đinh Hỏa nung luyện mới thành đồ vật. Nếu gặp Bính Hỏa không có tác dụng gì. Nếu hành vận Mộc, Hỏa ở phương đông, phương nam tương đối tốt. Bởi vì Mộc, Hỏa thông sáng Kim mới có thể được nung luyện. Nếu gặp Dần, Mão tới Giáp, Ất và Tỵ, Ngọ, Mùi là nơi Quan tinh, Ấn thụ đắc khí, sẽ đều phát đạt. Nhưng ở phương bắc, phương tây thì Kim chìm, Thủy cạn, không thể thành tài.
Tân: Âm Kim – thích hành vận ở phương tây, bắc
Thuộc tính của Tân Kim là Âm, là dạng thủy ngân, chu sa, xích bích, ngọc trai, hấp thụ khi tinh hoa của mặt trăng, mặt trời, ngưng kết mà thành. Thích hợp ở phương vị của Kim thanh, Thủy tú, khí Thổ dồi dào nhất. Ưa hành vận phương tây, bắc. Nếu hành vận phương đông, nam thuộc Thìn, Tuất, Tỵ, thuộc tính ngũ hành của tứ trụ không có Đinh Hỏa là tốt nhất. Nếu gặp Đinh Hỏa khó có thể thành đồ vật, giống như ngọc trai rơi vào trong lò lửa, đẹp nhưng không có thành tựu. Cần đặc biệt chú ý Dần, Ngọ, Tuất hợp thành Hỏa cục sát vượng, thân phải vượng mới có thể đối phó với nó. Nếu trong tứ trụ có Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc cục, lại có Bính, Đinh, chỉ có hành vận ở phương vị Ngọ, Mùi mới có thể phát phúc. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành Kim cục, tạo hóa ôn hậu; hành vận phương đông cát lợi; kỵ hành vận phương nam.
Sinh ngày Canh, Tân: tháng Hỏa, giờ Kim hoặc Thổ, chủ quý
Người sinh ngày Canh, Tân có thuộc tính ngũ hành là Kim, nên phần này chủ yếu bàn về trụ tháng thích hợp nhất của mệnh này và quan hệ lợi, hại của Mộc, Thủy, Thổ, Hỏa với Kim.
Người sinh ngày Canh, Tân, nếu gặp Dần Ngọ Tuất Tỵ thuộc Hỏa, lại sinh vào các tháng thuộc Hỏa như Dần, Ngọ, Tuất, trụ giờ thuộc Kim, Thổ là đại quý. Nếu sinh vào ba tháng mùa thu và tháng cuối mùa đông, hoặc tháng mười một, phải sinh vào giờ Mộc, Hỏa mới là mệnh đại quý. Hành vận phương Đông, phương Nam của Mộc, Hỏa là tốt nhất; kỵ thái quá hoặc không đủ. Thiên về Âm hoặc thiên về Dương tuy có điều kiện tốt nhưng không có thành tựu gì. Nếu sinh vào tháng thuộc Hỏa mà không sinh vào giờ Tỵ, Dậu, Sửu, Thân sẽ không phải quý mệnh. Hành vận nếu gặp Kim, Thổ là đại cát. Ba trụ này hợp lại thành Kim cục, Kim thịnh Hỏa suy, không cát lợi. Người sinh ngày Canh, Tân nên hành vận Mộc, Hỏa. Bởi vì, nếu Kim không có Hỏa nung luyện sẽ không thành đồ vật; Hỏa không nung luyện Kim không thể hiện được tác dụng của mình. Kim và Hỏa tác dụng qua lại với nhau mới cùng có lợi. Nếu Hỏa quá thịnh mà không có Thổ, Kim tất sẽ bại; có Thổ mới có được hình tượng đúc ấn, đồ gốm nung luyện qua lửa mới thành đồ vật. Đó là mệnh của người có quyền cao chức trọng. Hỏa nhiều mà Kim ít, Kim thịnh mà Hỏa suy, đều là người tàn bạo, hung ác.
Xác định Tài, Quan của người sinh ngày Canh, Tân
Người sinh vào ngày Canh, trừ Canh Tuất, Canh Thìn là Khôi Cang, hợp kỵ của Tài, Quan luận theo trụ ngày. Còn bốn ngày Canh Thân, Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Tý đều coi Giáp, Ất Mộc là Tài, Đinh Hỏa là Chính Quan, Bính Hỏa là Thiên Quan. Người sinh vào sáu ngày Tân như Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mão, Tân Sửu, Tân Hợi, Tận Dậu coi Giáp Mộc là Tài, Bính Hỏa là Chính Quan, Đinh Hỏa là Thiên Quan.
Nếu năm, tháng, trụ giờ có thiên can là Giáp, Ất, Đinh, sinh vào mùa xuân, mùa hạ trong Hỏa, Mộc cục thì Tài, Quan mới có tác dụng. Nếu năm, tháng, trụ giờ không có ba can đó, nhưng sinh vào mùa xuân, mùa hạ trong Mộc, Hỏa cục cũng có thể coi là có Tài, Quan. Nếu Canh, Tân thuộc Kim là Kiếp Tài; gặp Nhâm Quý thuộc Thủy Thương Quan, khó có danh lợi. Nếu sinh vào mùa thu, mùa đông trong Kim, Thủy cục, dù có Tài, Quan cũng không có khí; dù được trợ giúp cũng không có nhiều danh lợi. Nếu hành vận phương đông, phương nam thuộc Mộc, Hỏa là hành vận ở phương vị hướng Quan lâm Tài. Không nên hành vận ở phương tây, phương bắc thuộc Kim, Thủy, hành vận ở phương vị Thương Quan bại Tài. Nếu trong tứ trụ có Bính, Đinh thuộc Hỏa là Quan và Sát hỗn tạp. Nếu Sát không được khắc chế sẽ chủ nghèo khổ, hạ tiện. Nếu không có Đinh mà có Bính, và không có khắc chế được coi là Quỷ. Nhưng cần phân biệt mức độ mạnh yếu của Quỷ mới có thể đoán định cát hung, thọ yểu. Nếu khắc chế thích hợp có thể là Thiên Quan; khắc chế thái quá lại không có phúc. Phải xem kỹ lưỡng can của trụ ngày trong trụ tháng có được giúp hay không, phân biệt tình hình của tiết khí rồi luận đoán. Nên hành vận ở phương vị thân vượng, Quỷ suy; kỵ hạnh vận ở phương vị thân suy, Quỷ vượng.
- Trích “Tam mệnh thông hội” -
Thân!
Sửa bởi AnKhoa: 10/12/2011 - 16:03