Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 1


68 replies to this topic

#31 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 11/06/2012 - 11:12

29. Quạ Cú Thù Nhau

Xưa kia có một đàn Quạ và một đàn Cú, hai bên thù oán nhau. Quạ đợi đến ban ngày, biết hẳn là Cú không thấy gì, chiêu tập tất cả đàn kéo nhau tới chỗ Cú ở, dày xéo tàn sát Cú lấy thịt ăn. Cú cũng lại đợi đến đêm biết là Quạ không trông thấy gì, liền kéo nhau đến chỗ quạ ở đánh cả đàn moi lấy ruột ăn. Một bên sợ đêm một bên sợ ngày, hai bên cùng nơm nớp sợ lẫn nhau không biết làm thế nào chấm dứt tình trạng khốc liệt đó được.

Bấy giờ trong đàn Quạ, có một con khôn nhất, bảo tất cả các con kia rằng:

- Mối thâm thù này đã gây ra, quyết không thể nào mà giải cứu được, nếu cứ kéo dài mãi tình thế này, thì có ngày phải tiêu diệt hết, không thể nào mà còn cả hai bên cùng hoàn toàn được. Nay ta cần phải tìm cách tiêu diệt hết bọn kia, không còn mống nào, thì sau này chúng mình mới có thể hưởng những sự yên ổn được, nếu không thì thế nào cũng sẽ bị hại.

Cả đàn nghe cho là phải, nhưng chưa biết làm cách nào mà tiêu diệt hết bọn Cú, là những kẻ thù chung, không thể đội cùng một trời với nhau được. Con Quạ khôn kia lại bảo cả đàn rằng:

- Nay tất cả đàn hãy nghe tôi, xúm lại đánh cho tôi sây sát mình mẩy đầu óc, xơ xác lông cánh đi, làm cho máu me chảy ra, rồi tôi sẽ tìm cách tiêu diệt chúng.

Bàn xong làm đúng như thế. Khi con Quạ kia bị thương rồi coi hình thể rất tiều tụy, lân la đến trước cửa hang chỗ Cú ở, kêu ra những tiếng nghe rất rầu rỉ có lúc hình như tắt thở. Cú nghe tiếng chạy ra hỏi, vì cớ gì mà thân thể xác xơ tiều tụy đau đớn như thế và đến đây có việc gì? Quạ vừa rên vừa đáp:

- Tất cả đàn tôi nó oán ghét tôi, nó đánh đập tôi, nó đuổi tôi đi, nay tôi bị bơ vơ không biết nương tựa vào đâu, tôi đến đây ước mong các bạn sẽ thương tình mà cứu giúp cho, tôi rất cám ơn, nếu tôi sống qua được lúc này thì không bao giờ tôi dám quên.

Con Cú ra trước trông thấy thế, nghĩ tình nên thương liền bảo cho các con kia biết. Các con kia đều nói:

- Ðấy là kẻ oán gia ở gần còn không được huống chi là ở chung, và nuôi thì chả hóa ra là giúp sức mạnh cho quân thù đó hay sao.

Con kia nói:

- Nay vì bị khổ sở nên mới đến cầu cứu ta, vả lại nó có một thân mình, thì nó còn làm gì mà sợ.

Bàn xong liền cho Quạ vào ở, hằng ngày cho ăn các thức ăn còn thừa, được ít lâu thân thể lông cánh Quạ lại bình phục khỏe mạnh như cũ, Quạ liền giả cách vui mừng và lập phương kế để hành động. Ngày ngày Quạ đi tha các cành củi và cỏ khô về chất cả chung quanh hang chỗ Cú ở tỏ ra vẻ báo ân. Cú thấy thế hỏi thì quạ đáp rằng:

- Ở đây toàn là hang đá lạnh, nên dùng các thứ này để ngăn gió rét.

Cú cho thế là phải cứ để mặc Quạ làm. Bấy giờ Quạ lại canh gác ở ngoài cửa để đền ơn bấy nay nuôi nấng. Quạ vẫn luôn luôn săn sóc hầu hạ canh gác ở ngoài cửa hang. Thu qua đông tới, tiết trời thay đổi, tuyết bay phủ khắp mọi nơi, gió bấc thổi rất mạnh, khí lạnh buốt thấu xương, rét run không được. Tất cả chung quanh đấy có bao nhiêu Cú đều vào hết trong hang.

Quạ gặp được dịp may hiếm có, cơ hội thuận tiện rất lấy làm mừng, ra ngay chỗ lũ trẻ chăn bò đốt lửa sưởi hãy còn cháy dở, tha ngay một thanh củi còn than cho vào đống củi và cỏ khô đã chứa sẵn, nhờ sức gió thổi mạnh chỉ trong chốc lát mà cả đàn Cú đều bị tiêu diệt hết.

Trí Hải

“Dò sông dò biển dễ dò

Nào ai bẻ thước mà đo lòng người”.





Thanked by 2 Members:

#32 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 04:09

PHẦN BẢY

30. Vô Duyên Với Phật Thì Không Được Phật Độ

Trong thời Ðức Thích Ca còn tại thế, khi đó có ông Trưởng giả tên là Tu Ðạt, ông Trưởng giả này có một bà lão già tên là Tỳ Ðề La để coi giữ nhà cửa, tất cả kho tàng vàng bạc... cũng đều tin cậy phó thác gìn giữ. Nhân một hôm ông Trưởng giả thỉnh Phật và chúng Tăng để cúng dường. Những vị Tỳ kheo có bệnh thì ông lại phải dùng mọi thứ thích nghi để cung cấp cúng dường.

Bào lão ở thấy vậy sanh lòng tham ghen ghét mà nói rằng:

- Ông Trưởng giả nhà này thật là ngu si mê hoặc, đến nỗi xin thụ giáo qui y cả những Sa môn đi khất thực, có đạo nào mà như vậy.

Bà ta lại sanh ra ý niệm: “Không muốn nghe thấy cái tên Tam Bảo nữa”.

Hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi phu nhân nghe biết chuyện đó, liền nói:

- Ông Tu Ðạt Trưởng giả này thương mến bà lão ở như thương yêu nàng Liên Hoa kiều diễm vậy.

Tức thời sắc cho ông Trưởng giả Tu Ðạt phải sai vợ đến chầu hoàng hậu. Trưởng giả phu nhân đến nhà vua kính lễ Hoàng hậu và tâu rằng:

- Kính thưa Hoàng hậu, người ở nhà tôi quả thật ác khẩu, bất tín phỉ báng Tam Bảo.

Hoàng hậu nói:

- Sao không đánh đập đuổi đi?

Trưởng giả phu nhân thưa:

- Tâu hoàng hậu, Ðức Phật là cha của tất cả chúng sanh, thương tất cả như con đỏ, Ngài coi kẻ oán người thân như ruột thịt, huống người ở già này mà Ngài lại không thương? Ta là con Phật, há còn đánh đập làm chi.

Hoàng hậu nghe Trưởng giả phu nhân tâu rồi, tâm rất hoan hỷ mà nói rằng:

- Tôi muốn thỉnh Phật và Chúng Tăng, bà nên sai người ở ấy đến trợ giúp việc cúng dường cho tôi, trước khi Phật và Chúng Tăng đến.

Ông Trưởng giả liền sai người ở đem vàng bạc đến giúp nhà vua để cúng dường Phật và chúng Tăng. Khi Ðức Phật và Chúng Tăng tới cửa nhà vua, thì người ở kia thấy rồi tâm sinh ra buồn rầu tức thời muốn bỏ chạy đi. Ðức Phật ở trước người kia, giơ tay hoá thành mười Ðức Phật, thần tướng trang nghiêm phóng ra hào quang sang lớn, mỗi Ðức Phật lại nói ra mọi pháp mầu nhiệm.

Người ở kia ra về lại sợ thấy Phật nên không dám đi, Ðức Phật bảo người đó rằng:

- Ngươi thật là vô duyên đối với ta, ta lấy Phật nhãn xem biết ngươi chỉ có duyên với ông La Hầu La mà thôi.

Ðức Phật dùng Phạm âm sai ông La Hầu La qua để hóa độ. Bấy giờ Ngài La Hầu La thừa sức uy thần của Phật dùng thần túc bay đi trên hư không mà đến, khi người ở thấy Ngài La Hầu La có sức thần thông tự tại từ trên hư không mà xuống, tâm sinh ra rất vui mừng chưa từng có, liền cầu xin quy y. Bấy giờ Ngài La hầu La vì thương người ở kia mà nói các pháp cho nghe, nghe rồi xin thọ Tam quy, ngũ giới, liền chứng được sơ quả Thánh nhân Tu Ðà Hoàn.

Tâm Minh

“Thân người khó được, Phật Pháp khó nghe

Chúng Tăng khó gặp, Tín tâm khó sanh...”



Thanked by 1 Member:

#33 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 04:19

31. Bà Lão Kỳ Dị

“Tâm phàm phu xoay vần theo ngũ dục xao động không thể nắm bắt. Chỉ những người nào điều phục được tâm mình mới được yên vui”. Câu thứ 35 trong kinh pháp Cú có duyên khởi như sau:

Thuở Phật còn tại thế, trong xứ Kiều Tất La có một khu làng, nằm dưới chân núi là Mã Ðề thôn. Tại đấy có một bà lão sống một mình với một gia tài phong phú. Bà được mệnh danh là Mã Lão mẫu. Vào một ngày an cư sau khi Ðức Phật chỉ dạy cho chúng Tỳ kheo pháp quán 32 thể trược trong thân, có 60 vị đi đến Mã Ðề thôn để thực hành thiền quán. Bà lão cho xây cất một tu viện cho 60 vị ấy cư trú và cúng dường đầy đủ về y phục, thực phẩm, dược phẩm, mền chiếu trong suốt mùa an cư. 60 vị Tỳ kheo ấy muốn tinh tiến tu hành nên cùng đặt ra một quy luật như sau:

Không được hai vị Tỳ kheo đứng hay ngồi tại một chỗ đồng thời với nhau. Ðại chúng chỉ nhóm họp hai lần trong ngày là sáng sớm trước khi vào rừng tọa thiền và chiều tối sau khi ở rừng về, để bái yết vị Thượng Tọa chúng trưởng. Tuy nhiên nếu có Tỳ kheo nào bị bệnh, thì hãy đánh một hồi kẻng tất cả nhóm lại lo cho bệnh nhân. Sau khi thỏa thuận quy luật trên, chúng Tỳ kheo đi vào rừng mỗi ngày.

Một hôm bà lão đem thực phẩm tới chùa cúng dường, không thấy ai cả, bà bèn hỏi những người ở xung quanh, làm cách nào để gặp chúng Tỳ kheo. Có người biết quy luật nói trên, bày cho bà đánh kiểng. Tức thì từ trong rừng, các vị Tỳ kheo lần lượt trở về. Bà lão lấy làm quái lạ thấy mỗi người đi từ một hướng, không ai đi chung với ai, nên nghĩ thầm: “Có lẽ các Ðại Ðức có chuyện cãi vã nhau chăng?” Khi họ đến gần, bà lão hỏi ngay câu ấy và được trả lời:

- Không đâu lão mẫu.

Bà lão hỏi:

- Nếu quý vị không xích mích thì tại sao khi tới đây quí vị đi chung, mà bây giờ mỗi người đi mỗi ngã?

- Lão mẫu, chúng tôi mỗi người ngồi một gốc cây riêng để thực hành một phép quán của Thế Tôn chỉ dạy.

- Thưa quý Ðại Ðức, phép quán gì thế?

- Lão mẫu, chúng tôi quán 32 thể trược nơi thân.

- Thưa, phép quán ấy chỉ dành cho các vị Tỳ kheo mà thôi hay cư sĩ như lão cũng được tập tành?

- Ồ, lão mẫu, phép quán ấy ai muốn học cũng được cả, không ai cấm.

- Vậy xin Ðại Ðức dạy cho lão với.

- Ðược lão hãy nghe kỹ.

Rồi một Tỳ kheo đảm trách dạy cho bà lão phép quán 32 thể trược trong thân, để đi đến nhận thức rõ ràng về hoại diệt, chết chóc luôn luôn ẩn lặng trong thân mình. Bà lão thuộc lòng ngay phép quán và tinh cần tu tập đến nỗi bà đắc được quả vị thứ ba (bất lai) trong bốn thánh quả, trước các vị Tỳ kheo.

Với thiên nhãn thiền định siêu nhân, bà quán thấy tất cả những vị Tỳ kheo chưa ai được đạt cái gì và sau khi quán sát kỹ, bà thấy họ có khả năng chứng quả A La Hán. Khi nhận thấy điều này bà lão quyết định hỗ trợ cho chúng Tỳ kheo đầy đủ về mọi mặt, để họ có thể mau chứng quả. Vị nào thích hợp với món ăn nào, thức uống nào, bà cung cấp đúng nhu cầu của họ.

Bà thận trọng không cúng dường những thực phẩm có vị chua cho người nào yếu bao tử. Vị nào ưa ngủ gục trong lúc tọa thiền bà lão cúng trà đậm, vị nào yếu phổi, bà cúng thêm mền và áo lạnh. Trong tâm vị nào tưởng đến món ăn gì, bà lão biết ngay và đáp ứng. Nhờ sự chăm sóc ấy, sau khi giải hạ, 60 Tỳ kheo trở về bên Phật với sắc diện hồng hào tươi nhuận và tiến bộ khá hơn trên đường tu.

Phật âu yếm nhìn đàn con trở về và bảo:

- Này các Tỳ kheo, chắc chắn các con được an vui, sức khoẻ, thực phẩm đầy đủ trong mùa an cư?

- Dạ thưa vâng, bạch Thế tôn. Chúng con được an vui, sức khỏe và khỏi lo gì đến chuyện ăn uống. Bởi vì, có một bà lão ở Mã Ðề thôn biết được tận thân tâm chúng con, đến nổi chúng con vừa ước món gì là có ngay món đó.

Các Tỳ kheo thi nhau kể về bà lão dị kỳ cho Phật và Tăng ở Xá Vệ nghe. Một vị Tỳ kheo nghe xong, quyết đi đến Mã Dề thôn để thiền định và xin Phật:

- Bạch Thế Tôn cho con đến đó.

Phật bằng lòng, sau khi ra đề tài cho vị ấy thiền quán. Vị Tỳ kheo lên đường đi đến Mã Ðề thôn khi đến ngôi chùa của bà lão bỏ vắng, vị ấy nghĩ: “Mình nghe bà lão dường như biết được tâm kẻ khác. Vậy nay mình vừa mới tới, quá mệt vì đường xa không thể quét dọn chùa. Mong sao bà lão cho người đến quét dùm”.

Bà lão đang ở nhà riêng, biết được ý ấy, bèn cho một người đến quét chùa. Vị Tỳ kheo lại ao ước trong lòng: “Ước chi mình có được ly nước mát lạnh mà giải khát”. Bà lão cho người đem ly nước lạnh cho vị Tỳ kheo. Hôm sau, vừa thức dậy, vị Tỳ kheo ước: “Mong sao bà lão dọn cho mình một bữa điểm tâm nhiều bơ và thức ăn ngon lành". Bà lão cho người đem bữa điểm tâm như người ấy muốn. Vị Tỳ kheo kia nghĩ: “Bà lão đã cho ta mọi thứ ta ao ước. Bây giờ ta muốn gặp mặt bà, mong sao bà hãy đích thân đến, mang cho thật nhiều thứ ăn loại cứng loại mềm”. Bà lão đi đến chùa cùng với thức ăn cúng dường đúng sở thích của vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo hỏi:

- Lão mẫu, có phải bà là Mã lão mẫu không?

- Thưa vâng.

- Bà có tha tâm thông à?

- Tại sao Ðại Ðức hỏi vậy?

- Vì bà đã cho tôi mọi thứ tôi nghĩ đến.

- Nhiều vị Tỳ kheo cũng có tha tâm thông.

- Tôi không nói các Tỳ kheo, tôi muốn hỏi bà.

Bà lão vẫn tránh né bằng cách nói:

- Thưa Ðại Ðức đâu cần phải có tha tâm thông mới có thể cúng dường các thứ ấy?

Khi ấy vị Tỳ kheo bắt đầu hoảng sợ, nghĩ: “Khốn thay” Kẻ chưa chứng đạo như ta thì có khi nghĩ tốt nhưng lắm khi nghĩ bậy. Nếu lỡ có một ý bậy bạ khởi lên, bà lão sẽ tóm lấy cổ ta như tóm bắt một kẻ trộm, và liệng hành lý ta ra khỏi chùa. Ta sẽ bị khốn đốn với bà lão. Chi bằng ta hãy thoát khỏi chốn này.

Nghĩ như vậy xong, vị Tỳ kheo nói với bà lão:

- Này lão bà, tôi muốn rời khỏi nơi đây.

- Ðại Ðức đi đâu?

- Trở về Thế Tôn.

- Ðại Ðức ở lại ít lâu đã.

- Không, tôi không thể ở lại. Tôi phải đi ngay.

Nói xong, vị Ðại Ðức của chúng ta thu xếp hành lý thoát ra khỏi ngôi chùa bà lão, vừa đi vừa thở phào nhẹ nhõm cả người, như vừa trốn thoát khỏi tử nạn. Khi trở về vườn Cấp Cô Ðộc, đến đảnh lễ Phật, Phật hỏi:

- Sao, con không ở Mã Ðề thôn nữa à?

- Bạch Thế Tôn, bà lão ấy biết hết mọi ý nghĩ trong tâm con và con nghĩ rằng, kẻ chưa chứng đạo như con thì có khi nghĩ tốt, nhưng cũng nhiều khi nghĩ bậy, lỡ mà con có ý nghĩ gì xấu, bà lão ấy sẽ túm lấy đầu con như bắt kẻ trộm, và làm cho con khốn đốn.

- Con ơi, chính nơi ấy con cần nên cư trú.

- Bạch Thế Tôn, con không thể nào ở chỗ ấy được nữa.

- Này Tỳ kheo, con có thể chỉ giữ một điều này thôi không?

- Ðiều gì bạch Thế Tôn, con chưa hiểu.

- Chỉ giữ cái tâm của con, không làm việc gì khác nữa.

Sau khi nghe lời dạy của Phật, vị Tỳ kheo trở lại làng bà lão. Với thiên nhãn bà biết được vị Tỳ kheo sắp đắc quả nên càng chu đáo cúng dường để hộ trợ vị Tỳ kheo chóng đạt được mục đích. Do đó, chỉ trong vài ngày vị ấy đắc quả A La Hán.

Sau khi chứng quả, vị ấy suy nghĩ: “Bà lão ấy quả thực giúp ta rất nhiều. Nhờ bà ấy mà ta thoát ly được vòng sống chết. Không biết chỉ trong kiếp này bà ấy giúp ta, hay nhiều kiếp trước cũng vậy? Vị La Hán nhập định quán sát các tiền kiếp thì biết được rằng trong 99 kiếp trước, bà lão đã làm vợ mình và bà ấy đã ngoại tình với những người đàn ông khác đã làm cho mình phải thất điên bát đảo. Bà lại còn âm mưu giết mạng sống của mình. Khi biết được điều ấy, vị La Hán nghĩ: “Ồ, tín nữ này đã phạm biết bao tội lỗi!”

Bà lão ngồi trong nhà riêng biết được tâm niệm của vị A La Hán. Bà nghĩ thầm: “Vị ấy đang nghĩ về tội lỗi 99 kiếp trước của ta. Nhưng trong vòng luân hồi đã qua, có lần nào ta giúp vị ấy không? Bà lão nhập định thấy ở kiếp 100 về trước, bà đã cứu mạng sống của vị A La Hán ấy, khi vị ấy là chồng bà. Do đó, bà dùng thần giao cách cảm bảo vị La Hán:

- Hãy quán tiếp, đi sâu thêm nữa vào quá khứ.

Bằng thiên nhỉ thông vị La Hán nghe được hiệu lệnh trên, và tiếp tục quán sát đến kiếp thư 100 về trước của mình, thì thấy quả nhiên bà lão cứu mạng mình. Vị La Hán nghĩ: “Tín nữ này quả giúp ta rất nhiều”. Sau khi nghĩ như vậy, ngay tại chỗ vị ấy nhập Niết Bàn vô dư y.

Thích Nữ Trí Hải

“Nghìn sông cơn nước lưu giao

Mênh mông muôn dặm nơi nào không trăng

Hư không chẳng vướng mây ngàn

Minh linh hiển lộ màu xanh da trời”.





Thanked by 1 Member:

#34 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 09:50

32. Voi Trung nghĩa

Từ kinh thành Ba La Nại, ngược dòng sông hằng độ ba bốn ngày đường, người ta đi kiếm một khu rừng rậm của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Khu rừng già này có rất nhiều cây gỗ quý. Ven rừng, bên triền sông, một đám nhà lá san sát nhau, đây là một làng nhỏ. Dân làng kể cả đàn ông, đàn bà và trẻ em độ trên vài trăm người. Họ sống về nghề làm gỗ. Họ hạ cây, xẻ ván ghép thành bè chở về bán tận kinh thành. Công việc tuy vất vả nhưng họ kiếm được khá tiền để nuôi miệng họ và cả gia đình.

Một hôm kia, trong lúc mọi người trong làng đang hì hục đốn cây, cưa gỗ trong rừng, họ nghe có chân thình thịch bước đến và tiếng rống đau đớn. Rồi một con voi khổng lồ hiện ra, nhắc bước nặng nhọc trên ba chân. Chân trước bên phải của nó nâng lên khỏi mặt đất bàn chân sưng húp lên. Nó chậm rải, nhăn nhắc, tiến đến rừng các thợ rừng, tỏ ý cầu cứu họ. Thấy dáng điệu hiền lành của voi, một người thợ rừng đến gần, vết thương đang làm mủ. Cũng khá trầm trọng, nhưng đối với các người thợ rừng quen sống trong rừng sâu và từng gặp những tai nạn như thế, họ thấy không khó khăn gì trong việc cứu chữa cho voi. Họ gỡ gai ra, nặn hết mủ, rồi rửa chân voi bằng nước nóng. Họ hái lá, nhai nhỏ, rịt vào vết thương. Voi thấy dễ chịu, nhẹ hẳn đi. Và chỉ còn thời gian là vết thương sẽ lành. Voi gật đầu ba lần tỏ vẻ cám ơn rồi từ biệt.

Thời gian qua. Người ta cũng không nhớ ra câu chuyện trên đã xảy ra đã bao lâu rồi...Bỗng một hôm, một con voi đã đi vào giữa đám thợ đang làm việc. Phải rồi chính là con voi hôm nọ. Nhưng trông nó mập mạp, tươi trẻ hơn hôm trước nhiều. Vết thương ở chân đã lành hẳn rồi. Nó bước mạnh dạn. Nó đến bên người đã cứu chữa cho nó hôm trước mà quỳ xuống. Nó tỏ ý muốn gíúp đỡ các người thợ rừng để trả ơn họ. Không ai ngờ lại có câu chuyện như thế. Người ta đứng im xem nó làm gì. Voi đứng dậy, đến bên các cây vừa hạ xong, dùng vòi khuân các thân cây to đem đến chỗ cưa rồi những bó gỗ từ trại cưa đến bờ sông. Sức khoẻ của nó thật là kinh khủng. Nó làm một cách gọn gàng công việc của vài mươi người. Thế là từ đó, trong đoàn thợ gỗ có thêm một năng lực vô cùng dồi dào và chen vào trong tiếng cưa, tiếng búa đốn cây, lâu lâu lại có tiếng voi rống trầm hùng, vui vẻ.

Năm, tháng trôi qua, sức khoẻ của voi không còn như buổi mới đến. Các người thợ rừng cũng thấy rõ điều ấy nên không để voi làm nhiều. Cho nên một hôm voi thấy không thể tiếp tục công việc nặng nhọc được nữa, nó cúi chào mọi người rồi đi lẫn vào rừng sâu. Ai cũng thương nó đã giúp quá nhiều cho họ. Nhưng đến chiều, voi lại trở về và dẫn theo một con voi trẻ đẹp. Ðây là con voi con, chịu tuân theo lời cha, đến đây để thay thế cha nó mà trả ơn cho các người thợ rừng. Thật là cảm động. Nhiều người thợ rừng đã rưng rưng nước mắt.

Voi con tiến đến gần. Lông nó trắng như tuyết. Ðôi mắt voi sâu, hiền lành và cương quyết. Toàn thân voi như toát lên một oai lực làm cho mọi người kính nể. Ðích rồi! Voi con là một con voi chính thống. Cũng cần phải nhớ rằng đời xưa, voi chính thống có một thể lực lạ thường trong các trận chiến tranh. Sức khỏe nó, hơi hám nó có thể trong phút chốc làm tan rã bao đàn voi của địch quân để đem lại thắng lợi chắc chắn cho chủ nó. Voi con làm tất cả công việc trước đây cha nó đã làm cả ngày. Voi hết sức gíúp đỡ các người thợ rừng, rồi đến chiều voi trở về làng chơi đùa với bọn trẻ con sau khi đã tắm rửa sạch sẽ. Mọi người vì thế đều thương mến và kính phục voi.

Có một điều lạ là duy nhất có nhiều lúc phải lăn lộn ngoài sông nhưng không bao giờ voi đại tiện bừa bãi trong dòng nước. Những đống phân của voi khi nào cũng tìm thấy ở nơi cao ráo và kín đáo. Nhưng cuộc đời không luôn bình thường như thế, có một lần trời mưa to suốt ba ngày. Nước sông Hằng dâng lên ngập cả vùng. Nhiều bè gỗ bị nước cuốn trôi phăng. Dân làng bị thiệt hại nhiều, và đến khi nước rút xuống, nước cũng đã rút theo các đống phân voi. Những đống phân to này lềnh bềnh trôi đi và một hôm tình cờ đưa dạt vào bờ, trong đám lau gần kinh thành Ba La Nại. Chỗ này lại là chỗ bầy voi của nhà vua thường tắm.

Khi trời nắng ráo lên, bọn quản tượng nhà vua, lại dẫn voi đi tắm. Ðến nơi, cả bầy voi năm trăm con cùng nhận ra một mùi đặc biệt, mùi của con voi chính thống, một con voi chúa. Cả bầy voi dừng lại, không con nào dám xuống nước. Rồi bỗng chúng sợ hoảng lên, dựng thẳng đuổi, cắm đầu chạy trốn mặc sức cho bọn quản tượng tìm hết cách trấn tĩnh chúng, không ai hiểu nguyên do kỳ lạ này. Sau cùng, nhờ kinh nghiệm của một quản tượng cao niên, họ dự đoán rằng: Tất trong nước sông có điều gì khác thường. Theo ý đó, người ta tìm tòi và thấy được trong đám lau, vật “quý báu” trên kia. Ðiều này đã làm họ nghiệm rằng trên dãy rừng Hy Mã Lạp Sơn phải có một con voi chính thống. Họ tâu lên nhà vua điều nhận xét của họ. Vua Ba La Nại mừng rỡ vô cùng. Ngài truyền lệnh chuẩn bị thuyền lương để vượt ngược sông Hằng.

Nhà vua đã mất công tìm kiếm nhiều ngày ròng rã. Mãi đến hôm kia nhà vua đến làng của đoàn thợ rừng đông đảo. Nghe vua đến, mọi người đều nghỉ tay, cùng với vợ con họ ra bờ sông để đón tiếp. Có người đã nói với vua:

- Tâu Bệ hạ nếu ngài cần dùng đến gỗ, cần dùng đến chúng con thì không phiền gì Ngài phải đến đây, nhọc thân Ngài. Chỉ cần có lịnh của Ngài là chúng con sẽ đích thân mang đến tận tay Ngài những điều gì Ngài muốn.

Nhà vua không trả lời, chỉ đăm đăm nhìn voi. Nhà vua ngắm kỹ làn trắng tinh bạch của lông voi, đôi mắt cương quyết lạ thường của voi. Một lúc sau vua quay lại các người thợ, nói với họ:

- Ðiều ta muốn đòi hỏi ở các ngươi không phải là gỗ rừng mà chính là con voi đang đứng đàng kia.

Dân làng ngơ ngác. Nhà vua thiếu gì voi mà phải băng rừng tìm cho được con voi khuân gỗ của họ. Dâng voi cho nhà vua? Họ thấy không tiếc cái công sức mà voi đã giúp họ, nhưng họ mến thương lòng trung nghĩa của voi. Tuy vậy họ cũng không dám trái ý vua. Riêng đám trẻ con thì tỏ ý không bằng lòng. Chúng nghĩ đến những buổi chiều trèo lên mình voi, đùa giỡn với voi và chúng muốn khóc rống lên.

Mọi người quay nhìn về phía voi đang đứng im không nhúc nhích. Nó còn món nợ ân nghĩa phải trả đối với thợ rừng. Vua dò đợc ý voi và hỏi thăm dân làng. Biết được câu chuyện đầu đuôi, nhà vua càng tỏ ý khâm phục voi hơn nữa. Rồi nhà vua sai khuân vác lương thực dưới thuyền để thưởng tặng cho toàn thể dân làng, tặng cho mỗi người đàn bà hai đồng để sắm áo quần nói là để trả ơn thay con voi. Nhưng voi chưa chịu đi, nhìn sang các bạn thiếu niên đang âu yếm nhìn về phía voi rơm rớm lệ. Nhà vua đem tiền túi phát cho mỗi đứa bé một đồng gọi là chút tình đối với các bạn thân mến của voi. Bọn chúng phải cầm lấy tuy trong lòng không đứa nào tích nhận cái mà hằng ngày chúng mơ ước.

Lúc bấy giờ voi mới chịu bước đi, voi đến gần vua, cúi đầu cảm tạ và chịu đi theo đoàn thuyền để trở về kinh thành. Trước khi lên đường, voi còn nhìn lại toàn thể dân làng và núi rừng quen thuộc một lần chót, vô cùng lưu luyến. Ðến kinh thành nhà vua dành cho voi một sự săn sóc ân cần. Nhà vua gọi là voi Dõng Mãnh bộ giáp trận thật oai vệ. Vua ngồi trên lưng voi, dạo khắp các đường lớn trong kinh thành trước khi đưa voi về nhà riêng của nó. Vua xem Dõng Mãnh như người bạn thân thiết và Dõng Mãnh thường quấn quít bên vua, xem thật hết lòng trung nghĩa.

Ít lâu sau đó, Hoàng hậu có thai. Ngày sanh gần đến thì một chuyện đau đớn bất thình lình xảy đến. Vua băng hà. Cả triều đình đều nhất trí dấu không cho voi hay. Người ta sợ tin buồn này sẽ làm tan vỡ tim gan Dõng Mãnh. Liền ngày hôm đó, một tin hung dữ khác lại đến làm náo động cả kinh thành. Ðó là tin quân lính nước Cô Xa La hùng hổ tràn vào, và vua Cô Xa La định nhân cơ hội Ba La Nại thiếu vua, chưa có người kế nghiệp mà muốn tóm thâu đất nước, chiếm đoạt ngôi báu. Quân giặc đã vây chặt kinh thành.

Các cửa thành Ba La Nại đóng kín. Triều đình đã gởi người thương thuyết với vua Cô Xa La hoãn việc tấn công bảy ngày nữa, chờ Hoàng hậu sanh, hẹn hai điều, hoặc là sẽ mở cửa thành khi Hoàng hậu sanh công chúa, hoặc là sẽ nghinh chiến khi Thái tử ra đời để kế tục ngôi báu. Cô Xa La bằng lòng.

Ngày thứ bảy đúng theo dự tính của các ngự y. Hoàng hậu sanh ra được Thái tử. Thế là dòng vua đã có người kế nghiệp. Lệnh truyền ra cho mọi người sẳn sàng chống giặc. Thái tử mới sinh có tướng mạo khác thường đã làm vững lòng triều đình. Nhưng chuyện chống giặc, thắng giặc đâu phải chuyện dễ vì thiếu người điều khiển tối cao. Trong cơn nguy cấp này người ta còn một hy vọng mạnh mẽ, hy vọng ở tài trí của voi Dõng Mãnh. Hoàng hậu nghiêm trang trong đồ lễ phục, mặc áo vàng cho Thái tử và tự tay ẵm Thái tử đi thẳng xuống chỗ voi ở. Nhiều vị quan trong triều cũng đi theo Hoàng hậu, đặt Thái tử trước mặt voi rồi long trọng nói với voi:

- Hỡi Dõng Mãnh! Vua ta, chủ của ngươi và cũng là bạn thân của ngươi đã qua đời. Ta đã bảo dấu không cho ngươi biết tin đau xót ấy sợ làm đau xót tâm can ngươi. Nhưng mà, ngươi hãy bình tĩnh. Ðây là Thái tử, con vua, sẽ thay vua để chăm sóc dân chúng, chăm sóc ngươi. Hiện nay, kinh thành đang bị vây khổn và sắp sửa bị dày xéo bởi quân lính của vua nước Cô Xa La. Toàn nước ta đang đứng trước hai điều, hoặc là để Thái tử mới sinh phải chết dưới lưỡi gươm quân địch, hoặc là chúng ta phải gìn giữ non sông gấm vóc.

Hoàng hậu vừa dứt lời, voi Dõng Mãnh rống lên một tiếng trầm dài não ruột. Bỗng nó đứng dậy, đến bên Thái tử, quỳ xuống, lấy vòi nâng Thái tử lên cao rồi đặt xuống trên bắp thịt trước trán nó. Voi muốn nói sự tôn thờ trung nghĩa của nó đối với người chủ bé nhỏ cũng như trước đây nó đã hết lòng với vua cha. Voi trao Thái tử cho Hoàng hậu rồi phủ phục chờ lịnh. Hoàng hậu khoát tay cho nó đứng dậy và dặn:

- Hỡi voi Dõng Mãnh. Bây giờ là lúc ngươi hành động để tỏ lòng trung nghĩa của ngươi, để tỏ giòng máu quật cường trong ngươi trong một con voi chính thống”. Hoàng hậu vẫy tay cho nó lên đường. Một vị đại thần mặc áo giáp cho voi, và xuống lệnh cho quân lính sẳn sàng.

Voi rống lên hùng dũng, rung chuyển cả không gian. Tiếng rống xuất trận của một con voi chính thống đã làm bầy voi địch nhớn nhác. Bây giờ là lúc đánh bật quân địch. Người ta mở cửa thành cho voi xông ra. Voi Dõng Mãnh rống lên một lần nữa. Thật là kinh hoàng. Bầy voi tiên phong của Cô Xa La khiếp sợ. Trong giây phút, tất cả đều quay đầu về phía sau, cướp đường mà chạy. Hàng ngũ địch rối loạn nhanh chóng. Voi Dõng Mãnh lanh lắm. Nó xông tới trước mặt vua nước Cô Xa La, lấy vòi nắm chặt thân vua và quay trở về trong lúc quân địch hoàn toàn tan rã. Thế là trận đánh kết liễu và thắng lợi thuộc về nước Ba La Nại.

Voi Dõng Mãnh đặt vua giặc dưới chân Thái tử mới sinh chờ triều đình xét xử. Dân cũng đòi phải xử tử tên vua xâm lược tàn bạo. Nhưng Hoàng hậu thể theo sự thông cảm của mình đối với Thái tử truyền thả vua Cô Xa La được trở về xứ sở với điều kiện là từ nay về sau, không được lợi dụng Thái tử còn nhỏ mà trả thù buổi thất trận này. Voi Dõng Mãnh rống lên tỏ ý bằng lòng sung sướng.

Từ đấy, nhờ voi Dõng Mãnh mà Thái tử mới còn niên thiếu đã truyền được sự tin cậy trong toàn thể các nước ở Ấn Ðộ, trị nước một cách công minh.

Quảng Huệ

“Tình thương sẽ thắng hận thù,

Chùa thiêng phải dựng ngục tù phải tan”.

Thanked by 1 Member:

#35 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 09:55

33. Nhà Sư Vướng Lụy

Lúc Phật ngự tại Trúc Lâm cùng Tăng đoàn, có một thầy Tỳ kheo trẻ tuổi là đồ đệ của Ngài Ca Diếp, tinh cần tu tập đã đắc đến tứ thiền. Một hôm thầy về thăm nhà, trông thấy những đồ trang sức đủ kiểu rất đẹp mắt tại hiệu kim hoàn của người chú, thầy khởi lòng tham ái, mất định và hoàn tục. Chàng trai nhiều tham vọng này khoái ăn ngon mặc đẹp, đeo đồ trang sức, tắm dầu thơm. Nhưng ngoài những sở thích đó ra, chàng chẳng có tài cán gì cả, suốt ngày ăn rồi đi bát phố chẳng chịu làm một công việc gì. Thân quyến chú chịu hết nổi đành đuổi ra khỏi nhà.

Du thủ du thực, chàng bèn kết bạn với mấy tên bụi đời, lập thành một băng cướp có vũ khí, chuyên “ăn hàng mà sống”. Một hôm băng bụi đời sa lưới, cả đám đều bị bắt, quân lính còng tay các đương sự đem về nha, đánh đập đến mềm xương. Vì có nhiều thành tích bất hảo, toàn băng đều bị tuyên án tử hình. Ngày hành hình dân chúng rủ nhau đi xem rất đông. Tôn giả Ca Diếp trên đường đi khất thực gặp lại đồ đệ của mình đang bị áp giải ra pháp trường. Ðộng lòng trắc ẩn Ngài dùng thần lực nới lỏng dây trói và bảo:

- Con hãy cố gắng tập trung tư tưởng vào đề mục thiền định mà thầy đã dạy, như con từng làm ở tăng đường.

Nhà sư hoàn tục y lời chú tâm hành thiền ngay trên đường bị áp giải. Bị tử thần rượt nà sau lưng, thầy nổ lực cao độ và đắc tứ thiền trở lại.

Ðể răn dân, nhà vua truyền lịnh một pháp trường tại phía nam thành phố. Cờ xí rạp đất, chuông trống, thanh la, não bạt khua vang, dân chúng đi xem như mở hội. Ba vòng phủ quân nai nịt chỉnh tề, gươm giáo sáng ngời bao quanh pháp trường. Trước mặt đám tử tội, đao phủ bày la liệt dụng cụ hành hình: giáo mác, tên, nỏ, trường thương, đoản côn...và họ bắt đầu nung chông nhọn. Ngoại trừ sư thầy hoàn tục, các tử tội mặt xanh như chàm, mồ hôi nhỏ giọt, có tên lăn ra chết giấc.

Sư thầy hoàn tục được hành hình đầu tiên. Đao phủ ngạc nhiên khi thấy tội nhân không hề đổi sắc, toàn thân còn thấm nhuần một niềm an lạc vô biên. Ðám đông cũng nhận thấy điều đó, họ đồng thanh cất tiếng hoan hô:

- Thật lạ lùng! Tên tử tội ấy chẳng sợ hãi chút nào.

- Xem đồng bọn của hắn ngất xỉu hết kìa!

- Thật là một con người can đảm phi thường!

Trước hiện tượng lạ, quân canh liền phi báo cho nhà vua. Vua truyền lệnh hoãn vụ hành hình, và xa giá đến Trúc Lâm thỉnh ý Phật. Ðức Thế Tôn từ Hương thất gởi một hóa thân đến pháp trường đọc bài kệ:

- Người đã lìa dục xuất gia, ẩn mình chốn sơn lâm rồi lại hoàn tục, Khác nào kẻ đã được mở trói rồi tự buộc vào. Pháp Cú 344.

Phật vừa đọc kệ xong, sư thầy hoàn tục đắc quả Dự lưu, thầy dùng thần túc bay về tịnh xá đảnh lễ Ðức Thế Tôn. Và giữa hội chúng đông đảo gồm các Tỳ kheo Tăng, Ni, vua quan, binh lính...thầy đắc luôn quả vị A La Hán.

Thích Nữ Như Thủy Như Ðức

“Hồn đạo sĩ say sưa trong cõi định

Màu thời gian không dính áo cà sa

Quên bao nhiêu cảnh tưởng cõi ta bà

Ðể tìm lại pháp sâu xa vi diệu

Nguồn tâm thể nghĩa là kho tịch chiếu

Trải nghìn muôn ức triệu vẫn như nay

Xa không gian và xa cả tháng ngày

Xa tất cả nét thương vay đau khổ”.





Thanked by 1 Member:

#36 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 10:00

34. Sự Tích Cây Huyết Dụ

Ngày xưa, có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chương chùa làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.

Một đêm nọ, Sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đức con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói:

- Xin cứu mạng! Xin cứu mạng! rối rít.

Sư hỏi nguời đàn bà:

- A Di Ðà Phật! Cứu mạng là thế nào? Bần Tăng phải làm gì đây?

Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời:

- Ngày mai xin Hòa Thượng hãy cho đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con tôi rất đội ơn.

Nhà Sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, Sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.

Lại nói chuyện cũng hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách Sư cụ. Sư cụ cho biết câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình.

Nhưng bước chân về chuồng lợn nhà mình bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn nái mới mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng:

- Ðúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết.

Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với Sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.

Không rõ bác đồ tể rồi sau đó như thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.

Nguyễn Ðổng Chi

“Trăng sáng sau khi trời mới tạnh

Hiên ngoài thoang thoảng gió hương đưa".



Thanked by 1 Member:

#37 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 12:50

PHẦN TÁM

35. Công Đức Xuất Gia

Tại thành Vương xá, vườn trúc Ca La Ða, một bài pháp tán thán về hạnh xuất gia, mà âm vang còn vọng khắp đó đây: “Nếu người nào thường hay khuyến khích, kẻ nam người nữ, dân chúng hay chính tự mình xuất gia thì công đức ấy thật nhiều vô lượng, nếu đem so sánh với những phước báo khác thì phước báo này hơn hết. Vì sao vậy? Vì phước báo bố thí chỉ có hạn định, còn phước báo xuất gia thì vô ngằn mé, nên không thể bì kịp, hoặc phước báo trì giới, hoặc phước báo của các vị các thần tiên có năm phép thần thông, cho đến phước báo cùng tột của cõi trời Phạm thiên mà đem ví với phước báo của người xuất gia chơn chánh trong Phật pháp thì không thể so sánh nổi. Hơn nữa người xuất gia là kẻ đi trên con đường đến Niết Bàn, thể nhập tịch tĩnh, nên nói đến phước báo này không thể nghĩ bàn.

Giả như có người phát tâm xây tháp bằng thất bảo cao ngất tận trời cao, thì công đức ấy cũng không bằng người khuyến khích kẻ khác xuất gia, vì thất bảo kia, chắc chắn có ngày nào đó sẽ sụp đổ, hoặc bị kẻ gian ác ngu si phá hủy, còn kẻ khuyến khích người xuất gia, thì người kia tu hành phạm hạnh, tinh tấn trì giớ đức, cuối cùng chứng đắc A La Hán vô sanh hoặc lậu đoạn tận, trang nghiêm chánh pháp, thì phước báo này là hơn nhất và cũng không ai hủy hoại được.

Muốn cầu các pháp thanh tịnh, ngoài Phật Pháp ra không có pháp nào có thể hơn được. Cũng như có 100 người đui gặp thầy thuốc chữa lành, thấy rõ mọi vật, hoặc 100 người bị tội móc mắt mà giải cứu được khỏi bị nạn móc mắt, hai việc làm trên tuy có lớn lao, nhưng cũng không bằng khuyên người xuất gia.

Công đức xuất gia cao cả cùng tột, vì vậy chính tự mình xuất gia hay cho người khác xuất gia, sau khi tu hành thành tựu quả vị Bồ Ðề, hoằng dương giáo pháp, phổ giáo chúng sanh, chứng đắc tuệ nhãn, muôn ngàn kiếp không thể hoại diệt, lại còn làm con mắt sáng cho nhân thiên nữa. Những người được hưởng phước báo trong cõi người, cõi trời, chỉ trong thời gian rồi cũng bị dục vọng làm mê hoặc, phóng túng tư tình mà không có con mắt trí tuệ để nhận xét sự vật là vô thường, hư ngụy, là hố lửa, hang sâu thiêu đốt những ai ngu si tham vọng, là con đường dẫn dắt vào tam đồ lục đạo.

Pháp xuất gia có uy lực tiêu diệt quyến thuộc ma vương, làm cho lợi ích cho dòng xuất thế của Phật Pháp, nuôi pháp lành, nhổ tội báo, tăng phước duyên rồi thành Phật.

Ðức Phật dạy: Công đức xuất gia trong sáng cao như núi Tu di, sâu như biển cả, rộng như hư không. Ai đem tâm cản trở người xuất gia sẽ bị đoạ vào địa ngục hắc ám, và không có mắt, chịu sự tối tăm quanh vây. Vì vậy, khuyến khích hỗ trợ người xuất gia hay tự mình xuất gia được công đức cao như trời xanh, lớn như biển thẳm. Người xuất gia lấy kinh điển làm nước để rửa sạch hoặc nghiệp ô nhiễm, tẩy trừ sự sinh, già, bệnh, chết và gây nhân thể nhập Niết bàn. Lấy giới làm chân bước trên đất thanh tịnh trang nghiêm, lấy luật làm mắt để quán sát những việc thiện ác của thế gian, đi trên chánh đạo thẳng tiến Niết bàn. Ðó là pháp tối thắng của người xuất gia.

Thuở xưa, có một ông trưởng giả tên là Thi Lợi Bí Ðề sống đã tới 100 tuổi. Một hôm, ông nghe người ta kể cho ông nghe công đức của người xuất gia cao cả như vậy, ông thầm nghĩ: “Ta nay tuổi đã già, sức đã yếu, nhưng đối việc xuất gia học đạo theo Phật pháp được nhiều phước đức cao cả vậy ta hãy đến chỗ Phật xin xuất gia kẻo uổng lắm”. Nghĩ xong gọi vợ con lên bảo:

- Này bà và các con, hôm nay tôi muốn đi xuất gia học đạo, làm đệ tử Ðức Thế tôn, vậy ở nhà hãy lo làm ăn, có đồng ý không?

Vốn dĩ bị vợ con ghét bỏ, vì họ cho ông chỉ là kẻ ăn hại, chẳng làm việc gì cho có ích gia đình và những kẻ xung quanh, nên khi nghe ông đề nghị như vậy, vợ con đều tỏ ý vui mừng và tán đồng ngay.

- Dạ phải, ông hãy đi xuất gia đi, càng nhanh càng tốt, đi cho lũ chúng tôi nhờ.

Ông già bèn lên đường, thẳng đến Trúc Lâm nơi Thế Tôn và đại chúng trú ngụ. Nhưng chẳng may cho ông là hôm đó Thế Tôn chẳng có nơi tịnh thất, đi hóa độ nơi xa, ông già thăm hỏi các thầy:

- Bạch Ðại Ðức, Thế Tôn ở phòng nào? Xin làm ơn chỉ giùm tôi.

- Ðức Thế Tôn đi hóa độ chưa về.

- Bạch Ðại Ðức, Thế Tôn đi vắng rồi ai là bậc Tôn Túc Trưởng lão ở đây?

Nghe hỏi các Tỳ kheo đều chỉ đến ngài Xá Lợi Phất, ông lão chống gậy về phía Tôn giả, đến nơi, ông lão bỏ gậy, chắp tay thưa:

- Kính lạy Tôn giả, con một lòng chí tín xuất gia, học đạo, cúi xin Ngài thương xót thân già, thâu nạp làm đệ tử, con xin đội ơn muôn kiếp.

Tôn giả Xá Lợi Phất nhìn ông lão một lúc, rồi nghĩ: “Ông lão này yếu đuối quá, vậy học hỏi tọa thiền và giúp việc chúng làm sao ông đảm đang nổi” nên Tôn giả đáp:

- Ông già yếu lắm rồi, không thể xuất gia được đâu.

Nghe nói vậy, ông lão bèn chống gậy đến Ngài Ca Diếp, Ưu Ba Ly, A Nậu Lâu Ðà...cuối cùng đến 500 vị A La Hán đều hỏi:

- Ông đã thưa vị nào chưa?

- Trước tiên con có đến Ðức Thế Tôn, nhưng Thế Tôn không có nhà, rồi con lại đến Tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng Ngài chê con già nua, lẩm cẩm nên không nhận con làm đệ tử, xuất gia học đạo.

Nghe nói các vị đều nghĩ: “Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ siêu phàm mà không dám nhận ông lão vào hàng xuất gia huống nữa là ta. Như người thầy thuốc giỏi thấy con bịnh không thể chữa được nên các thầy thuốc khác cũng chạy luôn, có nghĩa gì. Hay Tôn giả biết trước ông lão sắp sửa chết nên không nhận, vì có nhận thì cũng không thể tu học được gì. Nghĩ vậy nên các Ngài cũng từ chối luôn.

Ông lão thất vọng, xin xuất gia mà chẳng có Ngài nào chấp nhận, chán nản ông ra ngoài cổng Trúc viên ngồi than khóc một mình, nghĩ rằng: “Ta từ lúc cha sanh mẹ đẻ cho đến khi khôn lớn rồi có gia đình sự nghiệp mãi đến bây giờ, thử nghĩ lại, ta có làm điều chi tàn ác đâu, vậy tại sao ta chẳng thể xuất gia học đạo được. Còn ông Ưu Ba Ly là người bần tiện, ông Ni Ðề là người hốt phân bò, ông Ương Quật Ma La là kẻ sát nhân khủng khiếp, ông Ðà Tắc Ky là ác nhân làm giặc, vậy mà sao họ lại được xuất gia thâu vào hàng Tăng chúng? Còn riêng ta thì có tội chi?” Ðương cật vấn lòng mình, thì bỗng nhiên Ðức Thế Tôn đi đến trước mặt, hào quang chiếu sáng, dung nghi đoan nghiêm, ông hoảng hồn chấp tay bái lạy.

- Này Thi Lợi Bí Ðề, làm gì mà khóc lóc vậy?

Ðức Thế Tôn hỏi, ông mừng rỡ quá, vội thưa:

- Bạch Ðức Thế Tôn, có những chúng sanh kẻ giết người, người làm giặc, kẻ nói dối, người phỉ báng, kẻ hạ tiện và những người cùng đinh, nhưng tất cả đều được xuất gia tu học, còn riêng con, tự xét từ thuở cha mẹ sinh ra, làm người đến giờ, nay là 100 tuổi rồi, con có làm điều gì bất thiện đâu, vậy tại sao con không thể tham dự vào hàng Tăng chúng xuất gia của Thế Tôn được. Bạch Thế Tôn, ở nhà thì bị vợ con ghét bỏ, nên đến đây, cầu chí nguyện xuất gia thì lại bị các Tôn giả chê là già cả, vô tích sự nên không thâu nhận. Khốn nổi quá! Con muốn tự tử, chết quách tại đây cho xong cái thân hủ bại này.

- Ai nói người này được xuất gia, còn kẻ kia thì không được xuất gia?

- Kính bạch Thế Tôn, Trưởng lão Tôn Túc Xá Lợi Phất đó.

- Thôi ông chớ buồn nữa, ta sẽ cho ông xuất gia học đạo, hãy theo ta vào Tịnh xá.

Nỗi lòng được xoa dịu, ước nguyện được viên thành, ông lão vui mừng hớn hở, như muốn chắp cánh bay lên hư không. Khi về tới Tịnh xá, Thế Tôn gọi Mục Kiền Liên giao trách nhiệm và dạy bảo, làm lễ thế phát cho ông lão.

Vì Ðức Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, với thiên nhãn, Ðức Thế Tôn nhìn thấy suốt tâm địa chúng sanh, ai có duyên với người nào thì người đó mới độ được. Như người chỉ có duyên với Phật thì duy chỉ có Phật mới độ được mà thôi, còn như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên cũng chịu; hoặc ngược lại kẻ có duyên với Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thì Phật cũng chịu không thể độ được người đó. Vì duyên ai nấy gặp, không thể thay thế. Vì vậy, ông lão này trừ Mục Kiền Liên ra không ai độ được.

Vâng lời Thế Tôn, nhận trách nhiệm dạy bảo ông lão, Mục Kiền Liên thầm nghĩ: “Ông lão này tuổi tác đã già rồi, thân hình lọm khọm, thì trong ba việc tụng kinh, tọa thiền, và làm việc chúng chẳng được việc nào, nhưng Thế Tôn đã giao, ta không dám trái ý”.

Ðược vài hôm sau, Tôn giả làm lễ thế phát và mở giới đàn truyền giới cụ túc cho ông. Từ khi ông lão được thế phát xuất gia, chính thức là một Sa môn chánh hạnh, ông rất tinh cần, ngày đêm cố gắng tu tập, nghe rành hiểu rõ giáo pháp nên chẳng bao lâu ông đã thuộc làu kinh điển, do vì đời trước ông cũng đã gieo trồng chủng tử lành và có duyên với Phật Pháp, nên tuy đời này đi xuất gia muộn nhưng chưa phải là trễ, chỉ tiếc có điều là tuổi già sức yếu nên về phép tắc oai nghi đối với các bậc tôn túc không được tròn bổn phận cho lắm, vì vậy mà các vị Tỳ kheo trẻ sanh tâm khinh lờn ông, cho rằng ông chẳng giữ lề luật, thanh quy nơi thiền môn, cửa Phật.

Thấy thái độ của các Tỳ kheo trẻ đối với ông như vậy, ông lão tự nghĩ: “Thiệt khổ! Khi còn ở nhà thì vợ con chẳng ngó ngàng gì tới, nay được xuất gia làm Sa môn đầu Phật, mong sự an nhàn, để tiến tu công đức ai ngờ lại bị các thầy Tỳ kheo trẻ tuổi hất hủi, khinh miệt, chẳng biết ta có tội gì mà nặng nề quá vậy, phiền não chẳng chịu được, chi bằng ta chết bỏ xác cho hết chuyện”. Ông liền đi đến khu rừng, bên cạnh con sông chảy xiết, ông cởi áo cà sa, vắt lên cành cây, rồi quỳ thẳng chấp tay đối trước chiếc áo khóc lóc mà nguyện rằng: “Con xin bỏ mạng nơi này, nhưng không bao giờ bỏ Phật Pháp Tăng. Chiếc áo của con, xin dâng cúng các vị Tỳ kheo tinh tấn, trì giới tu hành, nguyện bỏ thân này, được sinh vào nhà giàu sang, phú quý, vui vẻ thuận hòa, chẳng ai cản các thiện pháp, ước nguyện việc làm của con và được gặp thiện trí thức, xuất gia học đạo, tu đắc quả vị vô sanh, hoằng truyền pháp Phật và thẳng tiến trên con đường cứu cánh Niết bàn”.

Nguyện xong, ông lão nhảy ùm xuống nước. Khi đó Tôn giả Mục Kiền Liên ở trong khu rừng trúc, dùng thiên nhãn xem ông đệ tử già của mình làm trò gì, thì chợt thấy ông ta nhảy tủm xuống sông, Tôn giả bèn phóng thần túc vớt ông lên bờ rồi bay tới hỏi:

- Pháp tử làm gì vậy?

Thi Lợi Bí Ðề nhìn lên thấy Thầy mình, mắc cở quá liền cúi đầu xuống chẳng biết thưa như thế nào cho phải. Ông thầm nghĩ: “Ta không nên nói dối với Thầy, nếu nói dối trải qua nhiều đời sẽ bị tội kông lưỡi, nhưng nói dối sao được, vì Thầy mình có thần thông mà, vậy có nói gì nữa thì cũng biết. Trên đời bậc trí tuệ, thông minh, thật thà, ngay thẳng, các ông trời cũng phải kính trọng, còn kẻ dối trá, ngu si thì sẽ bị người ta khinh miệt, chê bai, cho là đồ hèn hạ, bẩn thỉu, lắm lúc có nói thật đi nữa thì họ cũng cho là nói dối, chẳng tin. Vậy chi bằng ta hãy trình bày sự thật cho Thầy mình biết, tội gì phải nói dối, mang tội đọa địa ngục”.

- Bạch Thầy, con đã chán nản cái cảnh tục lụy hồng trần này nên nguyện cắt tóc xuất gia, cầu sự an lạc, nhưng những ngày con ở đây, chẳng thấy sự an lạc gì hết, mà trái lại còn bị phiền nhiễu, bận lòng, nên con muốn chết tại đây cho xong đời, không ngờ Thầy biết được, xin Thầy rộng lượng từ bi mà tha thứ.

Tôn giả Mục Kiền Liên liền nghĩ: “Ông lão này sao lắm chán vậy, cứ đòi tự tử mãi thôi. Nếu ta không dùng một phương pháp sợ hãi thì đối với việc xuất gia của ông không thành công”.

- Này Pháp tử, hãy nắm chặt chéo áo cà sa của ta, khi đi trên hư không, ông phải nhiếp niệm chớ có loạn tưởng nghe.

- Dạ, con xin tuân mạng.

Ông nắm chéo áo thật chặt, Tôn giả Mục Kiền Liên bèn vọt thẳng lên hư không, như một cơn gió thổi mạnh, cuốn theo sau một làn bụi mỏng, trong chốc lát đã tới bờ biển. Tôn giả đáp xuống trên bãi cát, hai thầy trò thả bộ dọc theo biển. Ði được một đỗi, gặp người con gái mới chết, nằm phơi xác dưới ánh nắng mặt trời, ruồi nhặng bu quanh, trên mặt có một con trùng bò ra rồi chun vô lỗ mũi, sau lại luồn ra hai mắt, rồi rúc vào lỗ tai, thấy thật ghê rợn.

- Bạch Thầy, người con gái này tạo nghiệp gì mà chết phơi thây trên bãi cát vậy?

- Chớ vội, tí nữa sẽ hay.

Hai thầy trò đi được vài dặm lại gặp một người con gái, đội cái chảo bằng đồng đến mé biển, đổ nước đầy rồi đun lửa sôi sùng sục, cô bèn cởi bỏ áo quần nhảy vào chảo nước sôi ấy, tóc tai rụng hết, chân tay rả rời, nhừ nát cả thân thể, nước sôi mạnh quá làm hất tung cả xương thịt ra ngoài, nhưng xương thịt ấy gặp cơn gió thổi qua thì liền lại thành hình người như cũ, rồi cô gái ấy tự xé thịt mình từng mảnh mà ăn nhai ngấu nghiến, trông ngon lành lắm. Thấy vậy, ông lão sợ hãi, núp sau lưng thầy mà hỏi:

- Bạch Thầy, người con gái này mắc tội gì mà tự ăn thịt mình ghê quá vậy.

- Chớ vội, tí nữa sẽ hay.

Rồi tiếp tục đi, vài dặm nữa, có một thân cây to đứng bên đường rất nhiều sâu bọ bám quanh mình, cho đến cành lá cũng đều bị sâu bám chặt rúc rỉa, lại nghe những tiếng kêu than thảm thiết, rợn người.

- Bạch thầy, tiếng rên la của ai mà nghe rợn tóc gáy vậy?

- Chớ vội, tí nữa sẽ hay.

Thầy trò lại dắt nhau đi lang thang một đỗi thì gặp một trái núi rất lớn, có nhiều đao kiếm nhọn sắc, cắm ngược mũi lên trời, sừng sựng như hàng cây mọc, lại có một người nằm lăn từ trên đỉnh xuống dưới chân núi cứ như vậy suốt ngày không thôi. Hình dạng rách nát, máu me đầm đìa chẳng còn hình thù một con người nữa, thấy vậy, ông lão lên cơn sốt, bám chặt sau lưng Thầy:

- Bạch Thầy, ông làm công việc như vậy để được gì trông ghê quá!

Với giọng từ hòa cố hữu:

- Chớ vội, tí nữa sẽ hay.

Lại tiếp tục cuộc đi, qua khỏi hòn núi này, lại gặp một con trai to lớn, quanh mình mọc ra những đầu thú to tướng, lại thấy các quỷ thần từ xa cầm cung nỏ, mỗi mũi tên có ba chỉa, đầu bọc sắt nhọn có tẩm thuốc độc và cháy đỏ, họ thi nhau bắn vào thân hình người con trai, cháy nung da thịt, kêu gào thảm thiết.

- Ồ Bạch Thầy, người chi lạ vậy, con sợ quá!

- Từ từ rồi sẽ hay, chớ vội.

Nắm chéo áo theo sau Thầy được một đỗi nữa, thì có một quả núi lớn nhưng núi này toàn bằng xương ghép lại, không có đất đá, cỏ cây, cao tới bảy trăm do tuần, che kín cả một khoảng trời rộng, thầy trò bèn lên trên sườn núi mà đi. Thi Lợi Bí Ðề vừa đi vừa nghĩ: “Giờ này có lẽ ta hỏi Thầy sẽ trả lời, chứ hồi nãy đến giờ Thầy chưa trả lời cho mình một câu hỏi nào hết. Nghĩ vậy liền thưa:

- Bạch Thầy, xin Thầy giảng giải những sự việc vừa rồi cho con hiểu.

- Pháp tử, hãy chú ý, lần gặp đầu tiên, người con gái chết nằm trên bãi cát đó là vợ của Tát Bạc, người nước Xá Vệ. Cô ta rất đẹp nên được chồng quý mến và chẳng muốn xa rời. Một hôm Tác Bạc dong thuyền đi buôn, nhưng vì thương vợ quá không thể để ở nhà một mình nên cho đi theo, cùng 500 khách buôn ra biển. Thường ngày cô vợ hay tô điểm phấn son, trâm cài, lược dắt, soi gương ngắm nhìn vẻ đẹp kiều diễm của mình và sanh lòng kiêu mạn, và quyến luyến sắc đẹp ấy chẳng muốn phôi pha.

Thuyền đã ra khơi, bỗng gặp một con rùa khổng lồ đạp thủng hông thuyền, nước tràn vào và thuyền chìm lĩm xuống biển, mọi người đều chết hết, sóng gió thổi tạt những thây chết ấy vào bờ, vì tâm ái luyến và tưởng nhớ sắc đẹp nơi mặt mình, nên cô ta sau khi chết đọa làm côn trùng, nó vơ vẩn trên khuôn mặt từ mồm rúc ra lại luồn qua mũi, sang lỗ tai, chui vào mắt để ngắm xem bộ mặt đẹp đẽ, khả ái của mình mà không nở rời xa.

- Còn người thiếu phụ tự ăn thịt mình nơi chảo nước sôi, ấy là tội gì vậy?

- Người con gái đó, ở Xá Vệ là đứa tớ của một người Ưu Bà Di. Người Ưu Bà Di nguyện cúng dường cho một Tỳ kheo trì giới thanh tịnh trong mùa an cư ở riêng trong một tịnh thất, ngày ngày Ưu Bà Di sửa soạn các món ăn ngon lành có mùi đặc biệt, tới bửa sai đứa tới gái ấy bưng dâng cho vị Tỳ kheo kia, nhưng khi bưng đi, người tớ gái đó bốc ăn hết những thức ăn ngon chỉ để lại các món ăn dở cho vị Tỳ kheo dùng. Qua một thời gian, Ưu Bà Di thấy nhan sắc của tớ gái tươi tắn, mập mạp bèn hỏi:

- Bộ mi ăn vụng các món ăn của Thầy ta hay sao mà độ này mày mập tốt vậy?

- Thưa bà, đâu dám, con cũng tin tội phước lắm chứ, con đâu phải kẻ tà kiến ngu si, có lẽ nào con lại làm một việc hỗn ẩu như vậy. Sau khi Thầy ăn xong rồi còn thừa cho con, con mới dám hưởng chứ. Con xin thề: “Nếu con ăn trước đồ ăn của Thầy, đời đời con tự ăn thịt thân con”.

- Này Pháp tử, chính do nơi lời nói dối trá và thề thốt của người tớ gái mà sau khi chết phải chịu quả báo chính tự mình tạo ra là ăn thịt tự thân mình, sau đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng tận.

- Bạch Thầy, còn thân cây to lớn hồi nãy, có các con trùng bám chặt, sao mà rên la dữ vậy?

- Ðó là một vị Tỳ kheo, giữ của thường trụ tên là Lại Lợi Cha, lấy hoa quả và những đồ dùng khác cho anh em họ hàng và những người chung quanh, những người ấy sau khi chết, rơi vào loài súc sanh sâu trùng bám vào thân cây mà rúc rỉa, còn thân cây ấy, chính là vị Tỳ kheo giữ của thường trụ.

- Bạch Thầy, còn người bị bắn, thân thể cháy nám hết cả, là ai vậy?

- Người ấy lúc sanh thời là một thợ săn, sát hại các loài thú quá nhiều, bởi tội báo đó nên bây giờ phải chịu các quỷ thần bắn tên độc vào mình, chịu khổ não muôn bề, chưa rõ ngày nào thoát khỏi.

- Cái người lăn trên núi dao, máu me đẫm mình ấy, ông ta tạo tội gì mà bức bách quá vậy?

- Người này ở thành Vương Xá, là một chiến tướng đi tiên phong, sát hại dân chúng chẳng gớm tay, vì tội báo này, phải đọa vào đại địa ngục chịu thống khổ và việc làm hiện tại của ông đó là sự trả báo cho ngày trước.

- Vậy, còn cái núi xương mà chúng ta đang đứng đây là do đâu mà có?

- Núi xương này là của con cá Ma Kiệt, chính là tiền thân của ông. Ông còn là kẻ phàm phu chưa biết.

Nghe Thầy nói, ông lão đánh thót cả người, quỳ xuống bạch rằng:

- Bạch Thầy, tâm hồn con mê mờ, ngu tối chẳng biết đâu là đâu, vậy xin Thầy chỉ cho con biết vì tội gì mà con phải làm thân cá?

- Sinh tử không bờ, luân hồi không bến, nhưng đối với nghiệp báo thiện ác không sai lệch, trốn thoát được. Vào thuở quá khứ, có ông vua ở Diêm Phù Ðề này, tên là Ðàm Ma La Bí Ðề, chăm làm việc bố thí, giữ giới nghe kinh, có tâm từ bi, tánh không bạo ác, chẳng khi nào làm tổn thương tánh mạng loài côn trùng. Xứng đáng là một ông vua đạo đức. Ông dùng chánh pháp để trị dân, làm vua được 20 năm, nhân lúc rảnh đánh bạc chơi vui, lúc ấy có người bất bình với quan tòa trong một vụ xử kiện, quan tòa nổi giận và ỷ mình là quan lớn nên đi ngay vào tâu láo với vua:

- Tâu bệ hạ, ngoài thành có kẻ phạm tội giết người, vậy phải trị như thế nào?

Nhà vua ham chơi chẳng suy nghĩ:

- Cứ chiếu theo luật nước mà trị tội.

Quan tòa y theo luật, kẻ nào giết người thì bị tử hình, nên người đó bị xử trảm một cách oan ức. Mãn cuộc chơi vua hỏi kỹ lại các quan, mới hay người ấy bị hãm hại vô cớ. Vua giựt mình, xây xẫm mặt mày, té lăn xuống đất. Các quan kêu gọi hồi lâu mới tỉnh. Vua than:

- Thôi rồi! Hỡi các cung tần mỹ nữ! Hỡi bá quan văn võ ! Ta phải đọa vào địa ngục, vì đã phạm tội giết người! tất cả đền đài ngôi báu ta xin trao lại cho các khanh ngự trị, riêng ta một mình dấn thân vào rừng sâu núi thẳm để tu hành, cầu đạo giải thoát từ đây.

Nỗ lực tiến tu, sau thời gian liên tục, cuối cùng mạng chung, vua đọa làm loài cá Ma Kiệt ở trong biển lớn, thân cá dài 700 do tuần. Một giấc ngủ trải qua một trăm năm, lúc tỉnh dậy đói quá, không có đồ ăn nên há miệng ra các loài tôm cá đều trôi vào bụng Ma Kiệt. Giữa lúc há miệng có một chiếc thuyền buôn đang theo dòng nước, xuôi thẳng vào miệng cá, mọi người trên thuyền quá khủng khiếp, gào thét, khóc la, có kẻ niệm Phật, người cầu trời khẩn đất, cũng có người kêu gọi cha mẹ vợ con, kể lể hôm nay là phút cuối cùng từ biệt cõi đời, không bao giờ thấy lại gia đình nữa.

Thuyền sắp chui vào miệng cá, sự sợ hãi lên tột độ, mọi người đồng thanh niệm to “Nam Mô Phật”. Bấy giờ cá Ma Kiệt nghe được tiếng Phật, động lòng từ bi liền ngậm miệng lại, đoàn người nhờ vậy được an lành. Vì lòng từ bi đó, cá Ma Kiệt lặn xuống nước nhịn đói rồi chết, sau đầu thai sinh vào thành Vương Xá, còn xác cá Ma Kiệt, nổi trên biển, các quỷ dạ xoa la sát kéo vào bờ và khiêng vứt lên bãi. Trải qua ngày tháng nắng mưa, da thịt đều tan hết chỉ còn trơ lại bộ xương. Này pháp tử, ông vua thuở đó nay chính là ông. Bởi tội giết người mà phải đọa làm cá Ma Kiệt ở dưới biển, nay đã làm được thân người tại sao lại muốn chết? Ông hãy nhàm chán sinh tử để yên tâm cầu giải thoát, chứ nếu một khi rơi vào địa ngục thì khó bề có ngày ra khỏi.

Thi Lợi Bí Ðề nghe thầy mình giảng giải những báo ở tiền kiếp được hiểu rõ nhân quả luân hồi, và sự tạo nghiệp, trong lòng rung động, nhàm chán sanh tử. Ông chú ý quán sát đống xương cá là kiếp trước chính thân mình, thầm hiểu nỗi vô thường biến dịch. Trong giờ phút đó, Thi Lợi Bí Ðề trút sạch các lậu hoặc, đắc quả A La Hán. Biết được đệ tử của mình đã chứng quả, Mục Kiền Liên hoan hỷ:

- Này pháp tử, việc làm của ông đã xong, gánh nặng đã đặt xuống rồi, vậy hãy về Tịnh Xá.

Nói xong, Tôn giả vụt lên hư không như phượng hoàng vỗ cánh, Thi Lợi Bí Ðề cũng bay theo, như chim con bay theo chim mẹ, trong chốc lát đã đến vườn trúc, trước cửa Tịnh xá. Khi ấy các vị Tỳ kheo trẻ chưa biết ông đã chứng quả A La Hán nên vẫn xem thường, không cung kính có lúc lại còn la rầy nữa. Nhưng vì lòng đã từ mẫn nhu nhuận nên ông hoan hỷ âm thầm chấp nhận.

Ðức thế Tôn biết được tâm ý của các Tỳ kheo trẻ kinh mạn đối với các bậc đã chứng quả, và để chận đứng tội lỗi đó, nên giữa đại chúng Phật dạy:

- Này Thi Lợi Bí Ðề, ông mới ở ngoài biển về phải không?

- Bạch Thế Tôn, con mới từ biển về.

- Ra biển có gì vui không?

Thi Lợi Bí Ðề cung kính thuật lại những điều đã qua cho Thế Tôn và đại chúng nghe. Phật dạy

- Lành thay, Thi Lợi Bí Ðề kể từ hôm nay nỗi khổ sanh tử ông đã trút sạch, thể chứng Niết Bàn. Như vậy, ông thọ nhận sự cúng dường của chư thiên và loài người, việc làm xứng đáng của một bậc A La Hán.

Nghe sự việc rõ ràng như vậy, các Tỳ kheo trẻ lo sợ, thầm nghĩ: “Chính ông lão này là bậc Trưởng lão Tôn túc, ấy là mình không hiểu, đem tâm khinh mạn, tội này chẳng phải nhẹ, vậy giờ ta hãy tỏ bày sám hối trước Tôn giả là hơn”. Nghĩ xong, các Tỳ kheo trẻ đứng dậy đến trước Thi Lợi Bí Ðề cúi đầu xin sám hối.

- Tôi đối với mọi người đều có lòng thương xót, xin nguyện các Thầy thân tâm được thanh tịnh.

Mặc dù đã sám hối, nhưng các Tỳ kheo trẻ vẫn thấy sợ sệt, Thi Lợi Bí Ðề biết được, ông giảng giải lý sanh tử cho nghe, từ đó các Tỳ kheo trẻ gắng tu, tinh cần công hạnh, chẳng bao lâu đều đắc quả A La Hán. Do nhân duyên này, tiếng đồn khắp thành Vương xá:

- Thật lạ quá, ông già 100 tuổi rồi mà đi tu còn đắc đạo, thuyết pháp như nước chảy suối reo, chưa từng thấy. Từ đó, người trong thành noi gương ông mà lần lượt xuất gia rất nhiều.

Giới Ðức

“Ðức Phật cao thượng hơn các bậc trí tuệ, Ngài chẳng những chỉ cho chúng sanh thấy cái quả, mà còn dẫn chứng cho thấy cái nhân. Mỗi khi đề cập cái nhân, thì Ngài tiên đoán ngay cái quả”.



Thanked by 1 Member:

#38 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 12:55

36. Vị Sa Di Giữ Giới

Xưa tại nước An Ðà có một vị Tỳ kheo sai một vị Sa Di đến nhà một cư sĩ lấy đồ ăn. Lúc bấy giờ cả nhà đi xem hội vắng, chỉ có một người con gái tuổi 16, nhan sắc đẹp đẽ ở nhà. Người con gái thấy vị Sa Di, tà tâm nổi lên, bèn cúi lạy vị Sa di và thưa rằng:

- Nhà của tôi tiền bạc rất nhiều, nếu Ngài chiều theo ý của tôi thời Ngài làm chủ cái nhà này, tôi nguyện xin cung cấp tất cả.

Vị Sa di suy nghĩ rằng:

- Ta thà chịu bỏ thân mạng, quyết không phá cấm giới.

Nghĩ vậy bèn vào trong phòng, đóng cửa quỳ thẳng chấp tay phát nguyện rằng:

- Tôi nguyện không bỏ Tam Bảo chánh giới, nguyện sanh vào nhà thanh tịnh dứt sạch mọi phiền não, thành đạt Chánh giác.

Phát nguyện xong bèn tự vận mà chết. Vua trong nước nghe tin bèn tán thán cho rằng việc chưa từng có, bèn tự thân hành đến đảnh lễ trước vị Sa di, để thi hài trên xe báu, làm lễ cúng dường, rồi đem các thứ gỗ thơm làm giàn hỏa thiêu thân vị Sa di: “Xả thân giữ cấm giới”.

Minh Châu

“Giới là phao nổi để vượt qua bể khổ sanh tử

là ngọc anh lạc để trang nghiêm Pháp thân

Giới là đèn sáng lớn

Hay thiêu tối đêm dài

Giới là gương thật báu

Soi khắp pháp thế gian

Giới là thuyền bè lớn

Ðưa người qua bể khổ

Giới là ao thanh lương

Tắm gội trừ phiền não

Mọi công đức lành, đều từ đây phát sanh”.





Thanked by 1 Member:

#39 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 13:00

37. Vạ Mẹ

Ngày xưa có một nước rất là thái bình thịnh vượng, nhân dân cực kỳ đông đúc yên vui, mùa màng tươi tốt, của cải chứa chan, khí hậu điều hòa, tật bệnh không có, khắp thị thành thôn quê, đâu cũng như đâu, ai nấy đều được sung sướng như ý, không hề nghe tiếng kêu ca than thở bao giờ, đi đến đâu cũng thuần những cảnh ăn uống chơi bời hát xướng vui vẻ, thật không khác chi cảnh thần tiên hiện tại.

Bấy giờ vua hỏi các quan rằng:

- Trẫm nghe nói có những thứ tai vạ, vậy không biết có những thứ gì và hình thù của nó ra sao?

Tất cả các quan cũng đều nói là không ai biết cả. Vua liền sai một ông quan đi sang nước bên cạnh xem có thì mua về. Lập tức ông sắm sửa để đi, sang tới nơi, vào trong một cái chợ rất đông, thấy có một người (thần hóa) đứng giữa một con vật thật kỳ quái, hình nó như một con lợn nhưng coi rất hung tợn, nên phải buộc bằng dây sắt và khóa bằng một cái khóa sắt rất cẩn thận.

Ông quan kia liền hỏi:

- Ðây là con vật gì và có bán không?

- Ðây là “Vạ mẹ” ông có mua tôi bán cho.

- Bao nhiêu thì bán và hằng ngày nó ăn bằng gì?

- Một nghìn vạn thì tôi bán, cứ mỗi ngày nó ăn hết một đấu to kim.

Khi ông quan mua được đem về, liền truyền khắp cho tất cả toàn dân ai ai cũng phải góp kim để nuôi Vạ mẹ. Từ đấy trở đi suốt đêm ngày khắp cả nhân dân trong nước, ai ai cũng phải lo tìm kiếm sao cho ra kim để đóng góp, từ quan chí dân, đi đến đâu cũng thấy diễn ra những cảnh hà hiếp bắt bớ nhau, toàn dân bỏ hết mọi sự làm ăn, thành ra vườn ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ, tranh giành cướp bóc lẫn nhau, trở nên rối loạn, đâu đấy đều bị lầm than khổ sở vô cùng.

Sau một thời gian, các quan thấy dân thống khổ quá lắm rồi, mới tâu vua rằng:

- Vì cái Vạ mẹ nó đã sinh ra cho dân biết bao nhiêu tai họa, khiến cho toàn dân phải điêu đứng khốn khổ vì nó, vậy nay xin đem giết nó đi.

Vua nói:

- Việc đó phải lắm!

Bấy giờ cho người đem ra ngoài thành giết, thì đâm nó không thủng, chém nó không đứt, bổ nó không vào, đập nó không vỡ, đánh nó không chết, sau cùng phải đem lửa đốt nó. Khi mình nó bị lửa cháy hồng, thì nó chạy xông vào khắp tất cả làng xóm, chợ búa, phố phường, nó đi đến đâu có bao nhiêu nhà cửa hàng quán đều bị thiêu ra tro hết.

Nhân dân lúc đó lại càng rối loạn khốn cùng đi đến đâu cũng nghe thấy tiếng kêu ca than khóc suốt đêm ngày, đầy rẫy những cảnh hoang tàn thảm đạm, ai ai cũng đều than vãn cho là đương yên lành, bỗng dưng đi mua cái vạ mẹ đem về để nó sinh ra tai vạ, làm dân phải chịu lầm than khổ não.

Trí Hải

“Muốn làm một việc gì, trước nhất phải nghĩ đến kết quả của nó

Kẻ thường nhân sợ kết quả nhưng người trí tuệ chỉ sợ nguyên nhân”.





Thanked by 1 Member:

#40 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 13:04

38. Hòa Thượng Cua

Thuở trước ở miền Bắc nước ta, có một chú bé mồ côi cha sống với mẹ tại một miền quê hẻo lánh nọ. Năm chú bé được 12 tuổi, bà mẹ vẫn còn buôn bán tảo tần nuôi con. Một hôm, trước khi mang hàng ra chợ bán, bà mẹ trao cho con một giỏ cua đồng, bảo giã ra nấu canh làm cơm trưa. Chú bé y lời mẹ dặn mang giỏ cua ra làm. Bất ngờ, vừa giáng chày đập con cua đầu tiên, thấy con vật quýnh quáng, quờ quạng tay chân tìm đường sống, chú bé chợt động lòng bi mẫn, không nỡ tiếp tục, liền đem giỏ cua ra trút xuống ruộng.

Tan chợ, bà mẹ mang hàng về. Nhìn mâm cơm đạm bạc, bà ngạc nhiên hỏi:

- Thế, món canh cua đâu?

Chú bé ấp úng:

- Khi sáng con mang cua ra làm, thấy chúng nó khóc, con thương quá, nên...thả hết rồi mẹ ạ!

Vừa đói, vừa giận, bà mẹ vơ lấy cây đũa bếp, gõ cho con một cái, chú bé hoảng sợ co giò chạy ra kỏi nhà. Chú đi, đi mãi và xa mẹ từ đó.

Ba muơi năm đã qua, Bà mẹ đã già nua, vẫn bán hàng từng buổi chợ để mưu sinh. Một hôm đang buổi chợ, bà gặp một vị Tăng trung niên, ghé qua hàng hỏi thăm qua gia thế và đề nghị giúp đỡ bà bằng cách đem về chùa nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời và vào chùa làm công quả từ dạo đó.

Ngày tháng dần qua, đã đến lúc bà cụ từ giã cõi đời. Hòa thượng trụ trì, tức vị Tăng đã đề nghị mang bà vào chùa dạo trước, có việc phải đi bố giáo phương xa. Trước khi đi, Ngài dặn các môn đệ rằng nếu bà cụ mất thì chư Tăng cứ tẩn liệm nhưng đừng mai táng mà phải đợi Ngài về. Mọi người đều y lời.

Bà lão mất được một hôm thì Hòa thượng trở về. Ðứng trước quan tài mẹ Hòa thượng thắp hương khấn vái rằng:

- Trong kinh Phật có dạy, một người con tu hành đạt đạo, cha mẹ sẽ được sinh thiên. Nếu lời nói ấy không ngoa thì xin cho chiếc quan tài này bay bổng lên và vỡ làm ba mảnh.

Hòa thượng vừa dứt lời, chiếc quan tài đựng thân xác bà cụ từ từ bay lên, bỗng hạ xuống vỡ làm ba mảnh. Trước sự kinh ngạc của toàn thể hội chúng, Hoà thượng bèn thuật lại thân thế của mình, chẳng ai đâu xa lạ mà chính là chú bé thả cua dạo nọ. Từ đó, người ta gọi Ngài là Hòa Thượng Cua và cũng theo lời người ta kể, ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn còn tồn tại ở một ngôi chùa Bắc Việt, để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài.

“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp

Ðộ mình còn cứu vớt Mẹ Cha

Thuyền to một chiếc sắm ra

Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi”.





Thanked by 2 Members:

#41 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/06/2012 - 13:07

39. Hái Hoa Cúng Phật

Một thời Ðức Phật ở thành La Duyệt Kỳ. Lúc bấy giờ vua trong nước thường hay sai 10 người đi hái hoa. Một hôm, những người này ra ngoài thành hái hoa xong, liền trở về. Giữa đường gặp Ðức Phật hào quang chói sáng tướng tốt oai nghi, như mặt trăng giữa các vì sao, như mặt trời mới mọc, xung quanh lại có rất nhiều vị Bồ tát đệ tử theo hầu.

Các người hái hoa liền đến trước Ðức Phật, chắp tay đảnh lễ và bạch Phật rằng:

- Mạng người rất khó bảo toàn, Ðức Phật rất là khó gặp, kinh pháp rất là khó được nghe. Nay chúng con gặp được bậc Ðại Thánh, thật chẳng khác gì người bệnh gặp lương y. chúng con vì lòng tham dục mà phải đi hành dịch như thế này, mỗi ngày phải đi hái hoa về dâng cho vua, nếu chậm trể thì bị hình phạt. Nhưng ở đời được gặp vị Thánh Nhân là rất khó, trăm kiếp ngàn đời may mới gặp một lần, dầu cho chúng con cũng rất hoan hỷ dâng hoa cúng dường Phật và Thánh chúng, được thọ lãnh kinh giới, nghiên cứu suy tầm Phật Pháp cao sâu, trí tuệ vô cùng tận. Chúng con trải qua vô số kiếp, bị người hãm hại không sao kể xiết, nhưng chúng con chưa được vì Phật Pháp mà hy sinh thân mạng. Nay chúng con xin dâng bó hoa Tam Bảo cúng dường Ðức Thế Tôn, dầu có gì việc này mà bị hại, chúng con cũng khỏi đọa vào đường dữ, được sanh lên những cảnh giới an lạc. Chúng con xin thành tâm quy y, đảnh lễ Ðức Thế Tôn.

Ðức Phật biết rõ tâm ý chân thành của các người dâng hoa, tâm sanh lòng thương mến vô hạn, liền đem giáo lý Ðại thừa ra giảng dạy, khiến cho mọi người đều phát đạo ý, khai sáng Phật tuệ, chứng được bậc bất thối chuyển, không còn bị đọa lạc. Ðồng thời Ðức Phật thọ ký cho những người hái hoa tương lai sẽ thành Phật hiệu là Diệu Hoa.

Minh Châu

“Ở đời ai nghèo đến nổi không có thân. Thấy người làm việc thiện, tự mình giúp hoặc sanh tâm hoan hỷ tán thành, như vậy cũng gọi là thí chủ, cũng được phước đức”.



Thanked by 1 Member:

#42 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/06/2012 - 10:07

40. Con Trâu

Bác nông phu vác cày lên rồi đánh trâu ra đường, vừa đi bác vừa nhẩm tính:

- Còn ba hôm nữa là ta cấy mạ.

Bác sung sướng vì năm nay bác được mùa, bây giờ bác còn mong đợi ở thắng lợi ở mùa trái nữa, bác cười thầm, tay bác vụt mạnh mấy roi vào hông trâu. Bị thúc dục trâu bết bải bước gấp trên con đường gồ ghề của nông thôn. Làng này nằm một bên đồi hẻo lánh và hiện giờ đang ở trong cảnh yên lặng tịch mịch của ban đêm.

Màn sương vén dần, vừng đông vừa nhô lên khỏi đồi núi, những tia sáng đầu tiên lung linh xuyên qua đám mây trắng, lấp lánh chiếu trên mấy rặng thông. Trước mặt bác là cánh đồng phì nhiêu chạy dài đến tận chân đồi xa thẳm, thỉnh thoảng đôi rạch nước ánh lên vì nắng sớm.

- Tắc hò! Tắc hò!

Miệng bác nông phu lanh lảnh, con trâu nặng nề kéo, chân bác ấn mạnh lên lưỡi cày, đất bị xẻ từng đường dài uốn cong ra hai bên, như những lượn sóng rẻ ra trước mũi thuyền. Xa xa vài người đang cuốc lên nền trời trong. Năm bảy con ác là khấp khểnh đớp mồi trên những sóng đất cày. Từ phía rừng tiếng chim rải rác và gà rừng vang lên trong rừng lá rậm. Mặt trời càng lên cao, người và trâu nướng mình trong nắng. Lưỡi trâu le dài và nước bọt ràn rụa, mắt trâu lờ đờ vì nắng thiêu, đuôi trâu phe phẩy như vang lơn ngọn roi vun vút của bác.

Trâu tuy đã già, nhưng sức còn khỏe. Gia đình bác mỗi ngày mỗi lên, một phần lớn là nhờ trâu. Con trâu này là người bạn quý hóa của bác, rất tận tụy với bác, đã cùng bác vật lộn với cuộc sống và chịu dầm mưa giải nắng để đưa gia đình bác lên. Bác nông phu trìu mến trâu lắm, nhưng vì quá ham công tiếc việc nên đôi khi bác quên nghĩ đến sức khỏe của trâu cũng như sức khỏe của bác.

Cày hết đám này, bác cày tiếp đám khác, con vật cần cù ấy vẫn hì hục theo mệnh của bác. Cánh đồng bây giờ hoang vắng, gió bắt đầu đổi chiều. Bổng sầm lại. Từ phương đông mây đen nghịt nặng nề kéo đến khuất mặt trời, rồi đổ mưa xuống. Trâu và người vẫn thản nhiên cặm cụi làm việc trong mưa gió. Gió mỗi lúc mỗi mạnh, những hàng tre ngửa nghiêng, chớp sáng loáng, sét rầm vang. Một giờ sau mây tan dần mưa thưa hạt, rồi trời tạnh hẳn. Mặt trời lại rực rỡ xé toang màn trời cũ. Khí nóng, hơi bốc lên làm mờ những lũy tre trong làng. Bên kia đồi một vài con chim hót rời rạc.

Bác nông phu thấy choáng váng đầu, người hơi tê lạnh, mắt hoa lên, thả cày xuống lần vào gốc cây đa, nằm xuống bác thiếp ngủ.

Một hồi lâu đứng đợi mệnh lệnh, trâu không thấy bên sau cử động gì ngoảnh đầu lại thì thấy chủ đã nằm sóng sượt dưới gốc đa, và một con cọp từ đồi mon men đi xuống. Biết chủ mình lâm nguy, trâu vùng vằng một lúc hất văng dù một bên đường ruộng chạy bay vào cứu chủ. Thấy trâu hung hăng cọp lui vào bụi rậm. Trâu nhìn mãi không thấy bóng cọp, vui mừng đến húc chủ dậy. Bác nông phu mở mắt, trâu chỉ biết ngước mặt lên phía đồi… Ðầu bác còn choáng váng, thấy trâu đến húc mình, bác tưởng trâu thù bác, vùng dậy bác bẻ cây đánh trâu túi bụi, chịu đựng không nổi trước những ngọn roi vô lý ấy, trâu bỏ chạy mà không muốn phản kháng. Bác nông phu mệt lừ, vất roi bác thở hổn hển rồi mê đi bao giờ không hay.

Trên nền trời lam biếc, từng đám mây trắng đuổi nhau không ngừng. Gió hiu hiu thổi. Bác nông phu ngủ ngon lành. Không dằn được lòng háo sát, một lần nữa cọp ra khỏi bụi rậm, lần mò xuống đồi. Nãy giờ trâu buồn rầu đứng nhìn ngơ ngác giữa đồng ruộng, bỗng quay về phía rừng, trâu hoảng hốt, vì cọp đã đến gần gốc đa. Trâu không nhớ những giọt roi tàn bạo, mà chỉ nghĩ đến bổn phận của mình. Trâu chạy đến như bay, cọp nhún mình định vồ lấy bác nông phu, nhanh như chớp, bốn chân trâu nhẹ nhàng, bước đến phủ lên mình bác. Cọp tức giận phồng mang trợn mắt, phóc qua nhảy lại cố vồ cho được mồi ngon. Nhưng vô hiệu, mắt trâu đăm chiêu theo mọi hoạt biến của cọp để trương sừng đối phó.

Trong khi đó bác nông phu vẫn mê man ngáy đều đều, trong bầu không khí xâm chiếm và kháng cự yên lặng. Cầm cự một hồi lâu, thấy không thể tấn công được nữa, cọp nguýt trâu lần cuối, rồi trở về núi rừng. Trâu sung sướng rống lên một tiếng mừng chiến thắng. Ðang ngủ say sưa bác nông phu giật mình tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới bụng trâu, bác khủng khiếp, lồm cồm, vừa bò bác vừa la:

- Làng xóm ơi! Cứu tôi với, hắn giết tôi!

Trâu nghe bác la vang trời, tưởng bác mừng thoát chết, không ngờ bác lấy cây roi nguy hiểm khi nảy… Trâu vẫn thản nhiên đứng nhìn và chịu đựng những hành động phủ phàng của bác. Vừa đánh đập vừa nhiếc mắng:

- Ðồ phản chủ! Tao đánh chết mày.

Trên đường về Tịnh xá, từ xa Ðức Phật đã nhìn thấy hành động độc ác gây nên bởi sự hiểu lầm của người và nỗi oan ức của vật. Ði nhanh đến, Ðức Phật đỡ cây roi và bảo:

- Thôi đừng đánh nó nữa, ngươi cho ta cây roi nầy.

Vất roi xuống đất, Ðức Phật vuốt ve mình trâu:

- Thế là con hết bị đánh rồi.

Trâu như hiểu lời Phật dạy cảm động, nước mắt ràn rụa. Ðức Phật đưa tay thoa nhẹ vào các lằn roi rướm máu trên mình trâu, Ngài ôn tồn bảo:

- Trâu ơi con đau khổ lắm không? Nhưng thôi con đừng buồn tủi nữa, ta đã biết rõ nỗi lòng của con, lòng trung thành mà con đã được trả lại những ngọn roi oan khuất của chủ con.

Ðức Phật mãi mê an ủi con trâu như quên cả bác nông phu đứng bên cạnh, Ngài nói tiếp:

- Trâu ơi, một lần nữa ta khuyên con đừng buồn chán và con nên biết rằng không những một mình con, mà chính ta cũng đã nhiều lần nếm qua nỗi niềm chua chát ấy.

- Con ạ, ta vì thương nhân loại nên ra đời cứu khổ, thế mà có lắm người không thấu rõ lòng ta, họ đã và đang lăm le phá hoại và sỉ nhục ta. Nhưng trâu ơi, ta không nản lòng và không cho đó là sỉ nhục, mà những điều đáng sỉ nhục là khi nào không làm tròn phận sự của ta và không đem lại lợi ích, an vui cho mọi người. Con cũng thế, ta khuyên con vui lên, tiếp tục chân thành giúp đỡ khi an cũng như lúc nguy cho chủ con và cho tất cả mọi người, thì đó chính là một phần thưởng an ủi lớn lao cho đời con. Còn chủ con thấu hiểu lòng con hay không, điều đó không đáng kể lắm!

Nói xong Ðức Phật xây qua bác nông phu:

- Luôn hai lần cọp đến định vồ ngươi, mà đều được trâu chống cự để bảo vệ tính mạng cho ngươi. Thế mà vì hiểu lầm, ngươi đã đánh đập trâu. Không tin ngươi hãy nhìn dấu chân cọp.

Vừa nói Ðức Phật vừa đưa tay chỉ những dấu chân cọp còn lại. Giật mình bác nông phu vang lên:

- Lạy Ngài con không biết.

Bác chạy đến ôm lấy trâu khóc nức nở:

- Trâu ơi. Con hiếu nghĩa quá!

Một lần nữa Ðức Phật xoa nhẹ mình trâu và bảo:

- Thôi ta đi, con ở lại, con hãy làm tròn bổn phận của con nhé!

Từ giả bác nông phu, Ðức Phật khoan thai xuống đồi. Trâu lẫn người bốn mắt ngậm ngùi nhìn theo.

Châu Ðức

Ðốt nén tâm hương trước Phật đài

Phổ Hiền hạnh nguyện đừng sai

Hóa thân vô số làm muôn việc

Cứu khổ sanh linh khỏi lạc loài.





Thanked by 2 Members:

#43 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/06/2012 - 10:12

41. Sư Bác Quản Tượng

Thuở ấy, có một chàng quản tượng rất sành nghề, bỏ nhà đi tu, gia nhập Tăng đoàn và đi khất thực trên những con đường mà ngày xưa thầy vẫn thường cỡi voi đi. Một hôm, dừng bước thọ thực bên bờ sông Aiiravati, thấy một gã quản tượng non tay đang cố gắng điều phục một chú voi con, nhưng không thành công, thầy vọt miệng nói với mấy huynh đệ đồng hành:

- Luyện voi bằng cách đó thì còn lâu nó mới nghe theo. Phải đánh nó mấy chỗ nhược da non như chỗ này… chỗ này… thì nó mới sợ.

Gã quản tượng nghe lọt tai, mới làm theo và quả nhiên con voi chịu phép. Khi trở về tịnh xá, các thầy Tỳ kheo vui miệng kể cho chúng bạn ở chùa nghe và câu chuyện đến tai Phật. Phật gọi ông sư quản tượng đến, hỏi:

- Có phải ông đã mách nước như thế không?

- Thưa phải.

Phật quở:

- Này ông thầy vô tích sự! Ông làm như vậy, nào có ích gì. Ðâu phải nhờ cỡi thú mà người ta có thể đi đến nơi giải thoát. Chỉ có người nào biết tự huấn luyện mình, người đó mới đến bờ giải thoát. Ông nên tự luyện mình, đừng có làm cái trò luyện thú như vậy.

“Chẳng phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết Bàn. Chỉ có người tự huấn luyện mình mới đạt được thôi” (Pháp cú 323)

Thích Nữ Như Thủy Như Ðức

“Những ai thấu chánh pháp

Tự điều phục thân tâm

Thanh tịnh không não hại

Mới đáng gọi thượng nhơn”.



Thanked by 2 Members:

#44 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/06/2012 - 10:28

42. Cây Táo Núi Thiết Sơn

Xưa, trên núi Thiết Sơn có một cây táo to lớn không biết mọc từ thời nào, chỉ biết rằng từ xưa tới nay, chưa ai hề trông thấy cây đó có quả, dù là quả rất nhỏ. Vì thế, nhân dân ở chung quanh vùng đều đặt tên là “bất quả thọ”.

Chí Hiếu, một tiều phu ở miền kế cận, ngày ngày đem tấm thân gầy gò yếu đuối, lên núi kiếm củi bán lấy chút tiền mua rau cháo về phụng dưỡng mẫu thân. Mẫu thân anh là một bà già hình vóc mảnh mai, tuổi ngoài lục tuần và chỉ sanh hạ ra có một mình anh. Ít tháng nay, bà cụ bất hạnh bị đau mà nhà nghèo không có tiền thuốc thang chạy chữa nên dần dần hóa chứng tê bại nằm liệt trên giường, khiến cho Chí Hiếu ngày đêm nung nấu, phần thương mẹ già bệnh hoạn, phần buồn cho mình số hẩm hiu không lo tròn bổn phận làm con.

Một tối kia, vừng trăng hiền lành từ từ nhô lên khỏi khu rừng và tỏa đầy ánh sáng vào gian nhà ọp ẹp của anh. Trên chiếc chõng tre, lúc này, anh đang kể chuyện hầu mẹ để mẹ khuây khỏa nỗi niềm đau khổ, bỗng anh thấy cụ bà im bặt không trả lời, nghe hơi thở của mẹ đều đều phát ra, anh đoán chắc hôm nay bệnh của mẹ anh có vẻ dể chịu hơn, nên mẹ anh đã ngủ giấc ngon lành. Nghĩ như thế, anh thấy lòng anh tràn ngập hân hoan, liền khe khẽ đứng dậy khép cửa phòng và nhẹ nhàng bước ra nhà ngoài nơi có kê chiếc giường của anh nằm và cũng là cái bếp để thổi nấu.

Ðộng tác đầu tiên của anh là mở toang cánh liếp chắn cửa cho ánh trăng thỏa sức chiếu vào, anh giương to lồng ngực hít lấy không khí thì ít mà hít lấy ánh trăng thì nhiều, anh cảm thấy khoan khoái quá bất giác thốt lên:

- Cha chả! Ðêm nay trăng đẹp làm sao!

Nhất là khi nhìn đến mảnh vườn sạch sẽ trước sân đương tắm dưới ánh trăng vàng, khác nào như rải lên trên cảnh vật một tầng kim cương bảo thạch xem thấy vừa mát mẻ vừa mỹ lệ. Những giọt sương lấm tấm bám đọng vào lá cỏ ngọn cây lóng lánh như sao sa trông nào kém gì những hàng ngọc châu quý giá. Anh nghĩ: “Giả thử mẹ ta được mục kích cảnh tuyệt mỹ này của tạo vật an bài chắc người hoan hỷ không biết đến chừng nào?” Vừa nói anh vừa phóng tầm mắt nhìn về nẻo xa, bỗng một đạo quang trắng xóa qua ánh trăng êm đềm và bắn thẳng vào mắt anh. Hào quang đó quay mấy vòng rồi rơi xuống ngay chỗ trước mặt anh đứng.

Chí Hiếu định thần nhìn ra thì chao ôi! Bạch hào quang là một vị Lão Hòa Thượng! Vị Lão Hòa Thượng này xúng xính trong chiếc áo dài trắng tinh và điểm thêm một chòm râu phất phơ đến rún, trắng như bạc. Chí Hiếu hoảng sợ quá, tóc gáy dựng ngược và khắp mình gai ốc nổi đầy. Anh run lên cầm cập lưỡi líu lại không nói được câu gì chỉ biết trố mắt sợ hãi nhìn vị lão Hòa Thượng. Vị Hòa Thượng ôn tồn cất tiếng bảo rằng:

- Chí Hiếu! Con chớ có sợ hãi! Bần đạo là Hòa Thượng núi Thiết Sơn lại đây với mục đích chữa bệnh cho mẫu thân con, vì lòng hiếu thảo của con đã cảm động Tam Bảo, nhất là lòng ấy đã phát ra từ một người con nghèo nàn như con không tìm ra tiền thang thuốc cho mẹ già thì lại đáng cứu lắm!

Chí Hiếu nghe xong trong lòng xiết bao hoan hỷ, liền quỳ xuống bái tạ vị Hòa Thượng. Hòa Thượng đỡ anh dậy và vui vẻ an ủi:

- Con khỏi lo ngại cho bệnh tật của mẹ già! Hãy mau lên đỉnh núi Thiết Sơn, tìm đến cây táo cổ thụ mà hái cho kỳ được một trái đem về dâng mẹ ăn thì bệnh chi cũng khỏi liền.

Với sự bán tín bán nghi anh ấp úng một hồi rồi cung kính thưa cùng Hòa thượng:

- Bạch Hòa thượng, cây táo này đã từ bao đời chưa hề có bói một quả nào thì ngày nay có chi để hái?

Hòa thượng hồn nhiên nhắc lại:

- Không, hãy nghe lời bần Tăng, đừng nghi ngờ gì cả!

Chí Hiếu bản tính chất phác chậm hiểu nên vẫn còn hồ nghi, liền hỏi lại Hòa thượng:

- Thật có trái táo như lời Hòa thượng vừa nói không? Nếu vậy thì sung sướng quá!

Hòa thượng vẫn vui vẻ xác nhận:

- Bần đạo đâu có nói dối ai bao giờ! Cây táo đó sở dĩ lần này có trái là vì cảm thông lòng hiếu của con đối với mẹ già. Vậy con nên mau mau hái trái táo về chữa cho thân mẫu đi!

Chí Hiếu cuống quýt, sụp lạy Hòa thượng hai ba lần không ngớt, khi ngẩng đầu lên thì Hòa thượng đã biến đi đâu mất. Ðêm đó, anh hồi hộp quá không sao ngủ được, mặc dầu anh đã cố nhắm mắt hằng giờ. Khi gà gáy sáng lượt đầu, như chiếc máy, anh bật nhổm dậy, nhảy xuống khỏi giường rồi xăm xăm mở cửa, đi một mạch lên đỉnh núi Thiết Sơn, nơi có cây táo “bất quả thọ” xem có trái nào chín đỏ như lời Hòa thượng đã mách bảo đêm qua?

Khi đến chân núi, anh sực nhớ lúc đi đã quên không sang xin phép mẹ và nói để mẹ hay câu chuyện Hòa thượng hiện hình, anh chỉ sợ mẹ anh ở nhà, lúc thức dậy, không thấy anh thì sốt ruột sanh ra lo ngại. Tuy nhiên, việc đã lỡ rồi, anh đành cố mau chân đến đỉnh núi để chóng thu được kết quả đem về.

Phong cảnh núi Thiết Sơn lúc này sương lam còn phủ kín dầy đặc, vạn vật như ngừng lại trong vũ trụ im lìm, các loài muông rừng ra săn mồi ban đêm hầu như đã rút hết vào hang núi, hay gốc cây không còn con nào đi lảng vảng nữa. Ðàn chim sơn ca cũng còn nằm yên trong tổ ấm, hoặc chíu mỏ vào cánh, để cố níu thêm một đôi chút yên tĩnh trước khi thần thái dưong le lói hiện hình. Cả đến con ong, con bướm, con kiến, con sâu, giống nào, giống nấy cũng e lệ sương mai làm ướt bộ cánh mỏng manh, hoặc làm dính bộ chân mềm yếu nên chưa con nào chịu nhúc nhích ló hình ra vội, duy có dòng thác vô tư bên sườn núi không quan tâm gì đến ngày đêm lưu chuyển, nên cứ rù rì thả một điệu nhạc trầm trầm giữa cảnh núi vắng rừng hoang.

Mặc dầu trời chưa sáng rõ, nhưng đôi chân Chí Hiếu, với nhịp bước không ngừng, vẫn xuyên qua đèo ngang, rồi đến khe dọc, kế đến ghềnh đá, tới khi mặt trời vượt khỏi đỉnh non sông, thì anh đã leo đến lưng chừng sườn núi. Anh chỉ còn nỗ lực một phen nữa là tới đỉnh tức là nơi có cây táo “bất quả thọ” đang chờ đón anh theo như lời Hòa thượng đêm qua.

Ngặt vì khoảng núi này ghềnh đá cheo leo, cây mọc rậm rạp, anh cố leo hết những phiến đá nhô ra như tai mèo,thì vấp phải những tấm quái thạch sừng sững như vách dựng. Nhưng với tâm thành nồng nhiệt và một chí nguyện hăng hái, anh cũng đã leo được đến đỉnh núi. Lúc đó, mặt trời vừa đứng giữa đầu. Anh ngữa mặt lên cây táo, quả nhiên là một cây cổ thụ rườm rà, trong đám lá xamh, lộ ra trái táo to bằng vóc tay và chín đỏ như son chẳng khác gì vừng thái dương mọc ở giữa từng mây dày đặc. Anh reo lên:

- A ha ! Quả táo đây rồi. Hòa thượng quả nhiên không nói gạt ta! Trăm lạy Hòa thượng, người thật vì kẻ khổ, kẻ bệnh, kẻ nghèo mà mở đường cứu vớt.

Anh vừa nói vừa tán dương công đức Hòa thượng thì trên cành cây táo bỗng nhiên thấy nhiều quả táo xuất hiện đồng thời, và chỉ trong phút chốc quả nào quả ấy cũng vừa to vừa chín đỏ ối làm cho cành cây nặng trĩu phải rũ xuống thấp lè tè.

Anh mừng quá, hai tay ôm chặt lấy thân cây và đôi chân quành ra đằng trước lấy sức đẩy mạnh người lên trên cao như con nhái bầu ôm sát bụng vào cọc tre leo lên giàn. Khắp người anh mồ hôi nhễ nhại tuôn ra, làm ướt cả áo quần. Cũng may, cây mọc ở trên cao nên có khí trời trong gió mát, nhờ đó làm giảm được sự trèo leo vất vả một vài phần. Khi anh trèo được lên cây rồi, lòng tham lam bắt đầu mở rộng, anh trẩy hết cành này đến cành khác, tích được một số khá nhiều, anh liền cởi áo buộc lấy, rồi thoăn thoắt đi thẳng một mạch về nhà, anh vào ngay phòng mẹ nằm, đặt bọc táo trước mặt mẹ cười cười nói nói:

- Mẹ! (anh vừa nói vừa mở táo ra) Mẹ ăn đi! Ăn rồi sẽ hết mọi bệnh, mẹ ạ!

Mẹ anh mở to mắt nhìn thẳng những quả táo và hỏi:

- Ồ! ở đâu có của quý hóa thế này con? Ai cho con? Hay đi hái trộm của người ta? Mẹ chắc con chả làm gì có tiền mua được nhiều táo quý đến như thế!

- Mẹ ăn đi! Rồi con sẽ kể lai lịch để mẹ nghe.

- Không! Mẹ không ăn đâu, nếu chưa biết rõ của này từ đâu có. Nếu là của phi nghĩa thì không nên ăn con ạ!

- Con đã nói là mẹ cứ ăn đi, con cam đoan không phải là của ăn trộm ăn cắp đâu mà sợ!

- Vậy con kể mẹ nghe mau lên! Gớm, sáng nay con tự nhiên bỏ nhà đi, mẹ gọi mãi không thấy con thưa, làm cho mẹ lo hết vía.

Chí Hiếu liền đem các chuyện xảy ra kể lễ: Nào vị Hòa thượng cây táo Thiết Sơn hiển hiện ra như thế nào, cùng chuyện đi lấy táo trên cây “bất quả thọ” ra sao, nhất nhất nói cho mẹ nghe một lượt. Mẹ anh nghe rồi hết sức ngạc nhiên, hai tay cứ chấp lại vái lạy và miệng thì luôn luôn miệng Phật.

Bà cụ tạ ơn vị Hòa thượng trên núi Thiết Sơn, rồi cầm quả táo đưa lên miệng thấy một mùi hương ngào ngạt xông lên, khi miếng táo lọt vào mồm rồi bỗng tiết ra một thứ nước cam lồ vừa mát vừa ngọt, tưởng chừng như nước đó chạy khắp cơ thể đem theo một thần lực thấm nhuần làm cho khoan khoái các cơ quan trong người, khác gì ruộng khô mà được mưa tưới. Chỉ trong phút chốc bà mẹ của anh, nằm liệt giường hằng mấy tháng, bỗng nhiên ngồi nhổm dậy và tập tễnh từng bước nhỏ lê được ra đến cửa ngoài.

Tin này đồn đi, trong vài ngày khắp vùng đều biết tiếng. Cả đến thị trấn lân cận cũng lũ lượt kéo nhau đến nhà Chí Hiếu xin ban trợ cứu cho. Người đem cha mẹ lại, người đem anh chị hay vợ con lại, tấp nập đầy nhà, mà toàn là những bệnh kinh niên hiểm nghèo, mười phần chết hết chin. Chí Hiếu liền đem một phần số táo chia cho mọi người, quả nhiên ai ăn xong cũng đều khỏi bệnh.

Từ đấy, nhà Chí Hiếu hết toán này đến toán khác vào, Anh nghĩ bụng: “Tại sao ta không bắt bệnh nhân mỗi người phải đóng một phần tiền phí tổn về công phu của ta đi hái táo? Thiết tưởng làm như vậy cũng hợp lý chứ có sao đâu? Nghĩ rồi, anh liền yêu cầu mọi người phải trả tiền thì anh mới cho táo. Thế mà số người đến mua vẫn đông, cứ vài ngày anh lại bí mật lấy táo về bán.

Chí Hiếu nhờ đó, thu vào rất nhiều tiền, tiền càng vào thì anh càng mở thêm rộng lòng dục vọng. Trước còn thu gấp đôi gấp ba giá đã định, sau thu gấp năm gấp sáu, rồi đến gấp chín, gấp mười. Lúc này để chóng làm giàu, chứ không dòm ngó chi đến cảnh ngộ của người bệnh túng nghèo, nghĩa là có đưa đủ số tiền mới bán táo. Và chỉ thấm thoát trong vòng mấy tháng, một anh tiều phu nghèo nàn bỗng nghiễm nhiên trở nên một vị giàu có nhất vùng, khiến cho nhiều người phải lác mắt. Một hôm có người con gái tiến vào quỳ mọp dưới đất cấu khẩn van lơn anh, mỗi lời nói là một hàng lệ giàn giụa:

- Trăm lạy ông! Ngàn lạy ông! Xin ông bố thí cho tôi một trái táo thần để về dâng mẹ, mẹ tôi đang hấp hối, chỉ còn trông đợi ở táo thần của ông cứu mạng mẹ tôi!

Chí Hiếu lên mặt đạo đức chậm rãi nói:

- Nghe lời nói tôi cũng thấy thương. Chỉ còn lâu nay táo ít quả quá, nếu cô không trả tiền thì khó mà bố thí cho cô được!

Nói xong, anh cất bước đi vào nhà trong, mặc cho thiếu nữ nức nở khóc than kêu cầu, nước mắt cứ chảy như mưa, nhưng thủy chung anh vẫn giữ một mực không có tiền là không cho táo. Thiếu nữ không biết làm sao được đành thất vọng đứng lên đi về. Ðêm hôm đó, trên đỉnh Thiết Sơn, dưới bóng trăng soi vằng vặc tạo nên quang cảnh rất nên thơ, tân phú ông Chí Hiếu đứng dưới gốc cây táo thần, ngửa đầu lên ngắm nghía tàn cây xanh tươi, bất giác bật lên một giọng cười khanh khách tỏ vẻ đắc ý, bỗng có một đạo hào quang vút qua rồi hiện sừng sững trước mặt anh. Vị Hòa thượng áo trắng râu bạc ngày trước. Nhưng vị Hòa thượng lần này không tươi cười mà trái lại hiện ra với sắc mặt nghiêm nghị bảo anh:

- Hỡi Chí Hiếu! Người thiếu nữ đến nhà ngươi ngày hôm qua thật có hoàn cảnh đáng thương! Sao ngươi không thỏa mãn lời ai cầu của kẻ nghèo nàn mà cứ nhất định đòi nhiều tiền mới bán táo cho? Như vậy ngươi quả là người không có tâm từ mẫn mà chỉ muốn mở rộng lòng tham lam dục vọng thôi! Từ nay, cây táo này không cấp quả cho ngươi nữa và bao nhiêu những gì ngươi đã hưởng từ trước, nhất nhất phải thu về.

Nói xong vị Hòa thượng lấy tay rút cây táo lên khỏi mặt đất và ném thẳng ra bể Ðông. Chí Hiếu sợ hải quá, lủi thủi ra về, trong lòng tuy buồn nhưng yên trí rằng nhà đã giàu có, dù có mất cây táo cũng không sợ. Kịp khi về đến nhà thì bỗng lạ thay! Cửa nhà đã hiện nguyên hình là một túp lều tranh với chiếc lá bẹp nát y nguyên như khi trước, còn những lâu đài mới xây cất tráng lệ thì không biết biến đi đâu mà tuyệt nhiên chẳng còn lưu lại một vết tích gì cả! Ngay chiếc áo cẩm đoạn bằng thứ vải vóc đắt tiền mà anh mặc trên mình, lúc này cũng chỉ còn là một cái áo vừa rách vừa vá của anh vẫn mặc khi xưa! Anh đứng ngắm nghía cơ nghiệp đã mất, đành chùi nước mắt mà hối hận cho cuộc đời trở lại nghèo nàn của anh.

Than ôi! Tiền của ở đời

Ðã xui lòng thế bao người tham sân

Nghĩ gì hái quả trồng nhân

Chí Hiếu biết hối thì thân đã tàn

Thôi còn chi nữa mà than

Cơ hàn giờ lại cơ hàn như xưa

Phạm Ngọc Khuê

“Càng được càng thấy thiếu

Càng trì níu càng thấy chơi vơi”.



Thanked by 2 Members:

#45 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/06/2012 - 10:36

43. Chàng Ngốc

Sau lũy tre xanh kia, là gia đình đôi vợ chồng son. Chị buôn bán đảm đang, anh siêng năng chất phác. Tuy gặp nhau đã tám, chín năm mà chưa có con cái gì cả, song vợ chồng rất hòa thuận và tin yêu nhau hết lòng. Nhờ sự đồng tâm nhất chí, lại biết cần kiệm dành dụm nên không bao lâu anh chị được giàu to. Ðại phàm khi lùi xùi thì không nói, chứ đã giàu mà thiếu chữ “sanh” sao coi không được. Vả lại phương ngôn có câu: “Vợ ngoan làm quan cho chồng” chị liền đem vàng mua cho anh hai chữ “Bá hộ”. Thế thì khi có đình đám đâu, anh cũng có áo địa xanh, khăn chữ nhất, bệ vệ đi trước. Chị vợ thì tóc đuôi gà, giày hàm ếch đủng đỉnh theo sau.

Người ta thường bảo phước bất trùng lai, nhưng anh chị nhà này đã “cách mạng” câu nói ấy. Vì sau khi ăn khao Bá hộ được ít lâu, thì chị sanh hạ một cậu con trai. Vì hiếm hoi nên vợ chồng đặt tên con là “Cái ngốc”. Ngốc siêng ăn, chóng lớn, dễ nuôi, thấm thoát thế mà đã lên mười rồi đấy, vợ chồng cho con nhập học ở ngay trường làng. Xưa nay hễ phú quý thì sanh lễ nghĩa, nên anh chị nuôi một chú bé cũng trạc tuổi con để ngày hai buổi ôm trác hầu cậu đến trường. Tưởng đặt ngốc chơi ai ngờ ngốc thật, thầy hét ầm rát cổ, chữ nhất cũng không vô. Một tráp đựng đầy nghiên với bút, mà trong lòng chẳng có chút văn chương. Tuy đọc chậm, nhưng lớn mau. Cái Ngốc đã thành cậu Ngốc, một thanh niên mười tám tuổi.

Một hôm cha mẹ cho đi chơi phố. Cậu Ngốc ngỡ ngàng như mọi về thành nội, thấy cái gì cũng đẹp, cũng ưa. Khi đi ngang một tòa biệt thự thì cậu đứng nhìn sững.

- Ồ nhà ai đẹp quá! Ba tầng cao ngất, hai tầng dưới thì còn đẹp vừa, chỉ có tầng trên hết là đẹp nhất, có bao lơn rộng, có chậu hoa to, trang hoàng mát mẻ mà nghiêm lệ.

Cậu bảo tên tiểu đồng:

- Không biết ai làm ngôi nhà này mà đẹp quá...

Có anh thợ nề đi qua, tình cờ nghe thế, liền đứng lại bảo:

- Nhà này là của quan Thượng thư thuê tôi làm năm trước đấy.

Cậu Ngốc mừng quýnh, liền mời anh thợ cùng về với mình, để xin cha mẹ cất cho một tòa lầu như vậy. Thợ cũng mừng quýnh, liền theo ngay cậu Ngốc về quê. Ngốc thưa cha mẹ công chuyện và bảo thợ vẽ bản đồ nhà ấy cho cha mẹ xem. Khi trù giá tiền thì thấy đắt quá, cậu Ngốc cầm ngay bút quẹt hai tầng dưới, bảo:

- Thôi hai tầng dưới này không cần bác ạ, bác chỉ lằm cho tôi cái tầng thứ ba kia.

Thấy bác thợ ngơ ngác, cậu Ngốc giải thích:

- Nếu làm cả ba tầng thì nhiều quá, mà hai tầng dưới xấu tôi không ưng, vậy bác chịu phiền làm ngay tầng thứ ba cho tôi thôi.

Bác thợ tưởng món bở bỏ việc theo cậu Ngốc về, nay nghe cậu Ngốc nói ngớ ngẩn bác thợ chưng hửng, tức quá bác “xì” một cái thật dài rồi đi thẳng. Bác về kể chuyện lại mọi người đều cười lăn ra.

Câu chuyện này Ðức Phật ví dụ với những người đệ tử Phật, chịu bỏ dữ làm lành, giữ gìn ba nghiệp... đã vậy còn chê những quả vị thấp (Tu Ðà Hoàn) mà muốn bước ngay lên địa vị A La Hán, nên bị người đời chê cười, cũng như cậu Ngốc trong câu chuyện này vậy.

Thể Quán

“Không có kẻ thù nào có thể gây tai hại cho ai nhiều bằng những tư tưởng sân hận, si mê, tham ái của chính mình”.



Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |