Jump to content

Advertisements




TRUYỆN NGẮN


312 replies to this topic

#211 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 02/06/2021 - 20:13

TUỔI GIÀ CỦA TÔI

Tác giả: Duy Trác

*******************
Năm 1992 gia đình tôi tới Mỹ, một quốc gia tự do và nhân đạo, với 13 nhân khẩu. Không ngờ, vốn chỉ là một ca sĩ tài tử và đã bị chính quyền c.... s.. giam cầm và cấm hát suốt 17 năm, tôi vẫn được một trung tâm ca nhạc tiếng tăm mời sang Paris tổ chức một buổi hội ngộ với thính giả và thu những băng nhạc nghệ thuật.
Các thính giả đã vào cả hậu trường chào mừng tôi, buồn vui, mừng tủi. Tôi chỉ còn nhớ, và nhớ mãi một câu chào, như mâu thuẫn và thật lòng : 'Bác (hay chú) chẳng thay đổi gì cả, chỉ già đi nhiều thôi.'
Ồ ! Tôi đã già đi ! Chắc chắn rồi nhưng tôi đã không có thì giờ nghĩ đến. Làm sao có thì giờ nghĩ đến khi không biết ngày nào hết cảnh lao tù để về chung sức với vợ nuôi nấng 6 đứa con, 5 đứa cháu và một mẹ già đau yếu , nhất là nỗi đau mất 3 đứa con và 7 đứa cháu trên biển cả , nỗi đau quá lớn khiến mẹ đã té ngã và trở thành phế nhân với nửa người bất động.
Trong đời sống của mỗi con người, ai cũng có 3 giai đoạn : tuổi thơ, tuổi thanh xuân và tuổi già , riêng tôi tuổi thơ hầu như không có , cha mẹ mất sớm, bị những người lớn tuổi trong đại gia đình hành hạ ; năm 12 tuổi tôi đã bỏ đi sống một mình.
Tôi còn nhớ, hồi đó ở vùng kháng chiến Việt Bắc tôi thi vào trường Sư Phạm; với học bổng 18 kg gạo, 180 đồng tiền thức ăn, và 1 chai dầu dùng để thắp đèn học đêm. Nghỉ hè, trường không phát học bổng, tôi phải đi hái trà và đạp trà thuê , cuối ngày lãnh tiền đủ đong được chút gạo, hái rau rừng làm thức ăn. Với đủ mọi hình thức kiếm tiền lương thiện, tôi đã phấn đấu học hành, làm việc với châm ngôn do mình đặt ra: không hận thù những người đã hành hạ mình và phải cố gắng học cho thành tài. Cả hai châm ngôn này, tôi đã thực hiện đầy đủ và chân thành. Bỏ vùng Việt Bắc, trở về Hà Nội rồi di cư vào Nam, tôi đã cố gắng hoàn tất việc học, trở thành Luật Sư đồng thời lập gia đình năm 1961.
Ngẫm nghĩ lại, tuổi thơ không có, tuổi thanh xuân cũng không được bao nhiêu. Sau khi gia nhập Luật Sư Đoàn được 2 năm và lập gia đình được hơn 1 năm, vào năm 1962 tôi được gọi nhập ngũ. Dĩ nhiên, phục vụ đất nước trong thời chiến tranh là nghĩa vụ thiêng liêng của con dân một nước. Nhưng rời bỏ gia đình, bỏ lại vợ và con thơ để làm nghĩa vụ người trai trong 13 năm rưỡi rồi tiếp theo là 11 năm tù đày trong các trại tù c.... s.. ; thì hỡi ôi tuổi thanh xuân của tôi đã mất hút tự bao giờ mà tôi cũng không còn nhớ được nữa.
Năm 1992 tôi tới Mỹ với một tấm thân tàn vì bệnh hoạn, đói khổ và tù đày. Nếu không nhờ nền y tế tối tân và siêu việt của quốc gia này, tôi không còn sống tới ngày hôm nay. Từ bệnh cao huyết áp, tiểu đường, nghẽn mạch máu tim, cao mỡ v.v.., tôi đã phải vào bệnh viện 5 lần, thông tim 4 lần, stroke nhẹ 2 lần. Tôi phải liên tục dùng thuốc trong mười mấy năm nay, tốn kém của nhà nước bao nhiêu tiền của. Tôi đã cố gắng tập thể dục, ăn uống kiêng cữ, và nhất là tìm một môn luyện tập thân thể theo phương pháp đông phương thích hợp với tuổi già.
Ra tù và sang đến Mỹ thì tôi đã ở vào tuổi 56. Các thính giả có bảo là già đi nhiều thì cũng phải thôi. Tiếp tục vật lộn với đời sống để nuôi gia đình nên mối ưu tư về tuổi già, về những chăm sóc cho tuổi già được sống hợp lý, tốt đẹp cũng không phải là điều dễ dàng. André Maurois đã viết : 'Năm, sáu chục năm trời nếm trải những thành công và thất bại, hỏi ai còn có thể giữ được nguyên vẹn những điểm sung mãn thời trẻ ? Đi vào hoàng hôn của cuộc đời như đi vào vùng ánh sáng đã điều hòa, ít chói chang hơn, mắt khỏi bị lóa bởi những màu sắc rực rỡ của bao ham muốn. Và như vậy già là một tất yếu của vòng đời, một chuyện đương nhiên khi người ta tính tuổi, cớ sao phải lảng tránh ? Có trẻ thì có già, đó là nhịp điệu của vũ trụ, đâu cần phải khổ đau vì già ? Trái lại, phải làm sao để có một tuổi già hạnh phúc.

Thanked by 1 Member:

#212 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 02/06/2021 - 20:46

Trích 'Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối', Chương 8.

Một đoạn đối thoại giữa hai cha con của triết gia Mác-xít Trần Đức Thảo, thú vị không kém bất cứ một vở kịch trứ danh nào.

"... Đây là lần đầu tiên từ khi gặp lại con, “ông cụ” gọi Thảo bằng “mày” và xưng “t*o” :
- Chẳng thà đuổi t*o ra sống ở vỉa hè còn hơn là bắt t*o phải sống trong hoàn cảnh khốn nạn này.
- Bố cũng nên hiểu hoàn cảnh của nhiều gia đình làm việc ở ngoài khu của các cơ quan cách mạng, nay họ phải về làm việc ở Hà Nội này thì gia đình vợ con họ sống ở đâu bây giờ ?
- Sống ở đâu thì kệ họ, nhưng không thể chịu cảnh bỗng nhiên họ vào xâm chiếm nhà của t*o.
- Họ không chiếm, mà do luật lệ cấp phát nơi ở cho họ, thì họ dọn vào ở. Bố phải tuân theo luật lệ mới của cách mạng, không chống lại được đâu !
- Không chống lại được thì t*o ra vỉa hè t*o ở ! Luật lệ của cách mạng là có quyền trắng trợn cướp của cải của người ta hay sao ?
- Không hẳn là như vậy, nhưng cũng gần là như thế. Cách mạng có quyển lấy của người có để chia cho người không có ! Bố mà phản đối thì tức là bố phạm tội phản cách mạng. Mà tội ấy có thể bị xử tử hình !
- t*o nuôi mày cho khôn lớn, cho có học hành để mày về làm cách mạng để mưu tính xử tử t*o như thế này sao ?
- Luật lệ đó không phải sẽ vĩnh viễn, mà nó sẽ thay đổi khi xã hội đã làm ra đầy đủ của cải cho mọi người. Nay vì chưa có đủ nên mới phải tạm thời làm ra những luật lệ trưng thụ, tịch thu như thế. Chỉ vài năm nữa thì sẽ là mỗi nhà cho mỗi gia đình, không phải sống chung chạ nữa ... khi ta tiến tới thế giới đại đồng !
- Mày nói như thế là mày bênh vực cách mạng phải không ? Mày bắt t*o phải cúi đầu chịu cảnh bị cướp nhà phải không ?
- Không ai bắt bố cúi đầu tuân theo luật lệ cách mạng. Nhưng phải thông cảm với hoàn cảnh của đất nước. Nhất là bây giờ họ là kẻ chiến thắng, họ có quyền áp đặt luật lệ của họ. Chính vì vậy mà lúc vào thành, con mong muốn chẳng thà bố mẹ cứ tạm thời di tản vào Nam theo phe quốc gia, để đợi ngoài này ổn định xã hội cho xong, thì rồi ba và con sẽ có cơ hội đoàn tụ sau ... Như vậy mới tránh được những cảnh khổ tâm như thế này.
- Mày nói thế là mày là người cộng sản thật à ? [...]"
Luong Le-Huy

Thanked by 1 Member:

#213 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 06/06/2021 - 12:27

Cái Ti vi và một thời coi ké.

1./
Hồi trước 1975 nhà nào có “Máy truyền hình” là oách lắm ,phải có điều kiện kinh tế khá giả mới sắm được .Máy truyền hình là cách gọi phổ biến lúc bấy giờ , rồi từ từ kêu theo tiếng Mỹ: “Ti Vi” ( Television) . Đa số là TV trắng đen.Các nhản hiệu TV thường thấy là Denon,National ,Hitachi,Zenith ,Panasonic , Sony rất hiếm .
Về kích cở màn hình nhỏ nhất là 6 inches 9 inches ,lớn hơn thì có 12 inches 16 inches ,19 inches xem như lớn nhất

Màn hình TV thế hệ trước thường lồi (hơi cong về phía trước . Tẩt cả các nút điều chỉnh băng tần,sáng tối .âm thanh,độ tương phản nằm dọc theo bên phải màn hình ngay cả 2 chiếc ăng ten xoay sóng phát để trên đầu TV đều được điều khiển bằng tay ,chưa chế tạo được remote control
Những nhà có TV thường họ để trên đầu tủ buffet hay sang hơn thì có tủ cửa lùa đóng mở màu gỗ nâu đậm ,có 4 chân vững vàng,đặt trên nền nhà giữa phòng khách
2./
Những nhà có TV gần nhà tôi thuộc những gia đình trung lưu , tử tế. Mỗi tối khi chương trình truyền hình bắt đầu ,có nhà mở rộng cửa rào cho hàng xóm vào xem , để dép bên ngoài , vô ngồi sắp lớp dưới nền nhà .Trẻ con người lớn có đủ . Vài gia đình muốn yên tỉnh , họ chỉ mở cửa sổ , đủ cho người coi ké đứng bên  ngoài thưởng thức ., có người coi ké tính kỹ ,mang theo cái ghế ,ngồi cho đỡ mõi chân . Trẻ con là khán giả đến sớm nhất ,có khi trước 10 phút để “xí chỗ” ,nhà này hết chỗ còn có nhà khác ,riết rồi mỗi chủ nhà có TV đều có các khán giả quen thuộc . Được cho coi ké là may lắm rồi , cho nên hiếm có chuyện tranh giành chỗ ,hay cãi cọ trong suốt thời gian ngồi coi.
Nhà tôi xài đèn dầu quanh năm suốt tháng nên chuyện có TV là không thể.Sau này
được câu điện nhờ ,điều kiện kinh tế gia đình eo hẹp nên với ba tôi đó là phương tiện giải trí xa xỉ ,không nhất thiết phải có , hơn nữa ba lo coi TV riết ghiền,lơ là chuyện học.Điều gì ba nói là chị em tôi răm rắp ,tối đến mấy bạn cùng trang lứa đến rũ đi coi TV ,chúng tôi lắc đầu buồn bả .Nhờ má thuyết phục ,dần rồi ba đồng ý cho đi coi nhưng phải xong bài vở và phải về nhà đúng 22giờ .Sau ba nới lỏng hơn ,thứ bảy cuối tuần có thể coi “ thả cửa”!
Thế là mỗi tối ,mấy chị em tôi hầu như nhà nào gần có TV cũng ghé qua , không cố định nhà nào ,tùy lúc vắng lúc đông .
Đến khoản cuối năm 1969 thì căn nhà hơi xéo phía sau nhà tôi sắm TV .Chủ nhà vốn là một người Cảnh sát dã chiến ,cấp bậc sĩ quan , tưởng tá oai vệ.Chú tên Nông thứ tư nên cả xóm thường gọi là chú Tư Nông .
Chú Tư và mọi người trong gia đình phải nói rằng vưà hào sảng ,cởi mở ,vui tính vừa tốt bụng . Đặc biệt chú rất thương yêu con nít trong xóm ,quý trọng tất cả mọi người .Căn nhà chú ở đơn giản chì là ngôi nhà vách ván,khá nhỏ dành cho gia đình 10 người lại là nhà thuê.
TV nhà chú Tư loại 19 inches hiệu Denon .Vì nhà chú theo công giáo nên mỗi ngày sau bữa ăn tối họ còn phải đọc kinh ,sau đó mới mở TV .Mỗi lẩn mở là chú ra trước cửa nhà kêu với tần số khá lớn giọng thân thiện : “Qua coi TV nè mấy đứa ơi ! ,bà con ơi !”
Chú Tư chu đáo lắm .Luôn dọn sạch từ bộ ván ngựa nhà trước dành cho các con của chú ngủ ,cho đến nền nhà trán xi măng ,hễ còn chỗ trống thì kê thêm vài cái ghế .Chú phân định rõ ràng :con nít ngồi dưới nền nhà ,nhỏ trước lớn sau , bộ ván , ghế dành cho người lớn .Sau tiếng thông báo của chú là con nít tràn vô trước ,người lớn thì thong thả cởi dép phủi chân “thượng “lên bộ ván .Tuy nhiên nếu còn dư chỗ chú cho con nít lên luôn ,”đứng ngoài chi mỏi chân!” Chú hay nói vậy .
Bà con lối xóm chung quanh ai cũng quý mến chú,nhất là đám con nít ,hễ gặp là “chào chú Tư!” Chú luôn đáp lại” Ừ ,giỏi ,tối nhớ qua coi TV nha tụi con !”
Coi TV nhà chú Tư có cái lợi là khi đang xem dòng điện 220V bị cúp bất tử ,chú trấn an :”chờ 5’ !” Chú chuyển qua dòng điện 110V ,và như thế phải tắt đèn mới đủ điện .Cứ vậy mà chú túc trực phục vụ khán giả coi ké .
3./
Từ ngày nhà chú Tư có TV chỉ cần ba bước qua nhà chú là được vào ngồi hàng ưu tiên .Ba thấy cũng gần nên không còn khắc khe như trước .Coi riết thuộc luôn hết chương trình.
-Đài THVN những năm đó chỉ phát một băng tần duy nhất là Đài số 9 ( nghe chú Tư giải thích đài Thu hình trước rồi phát sóng bằng máy bay -nghe vậy chứ khán giả cũng mập mờ ,không quan tâm bằng có gì đề coi)
Ban đầu Đài 9 phát lúc 20 giờ ,sau dời lên 19 giờ.Hễ mở TV trước chừng 5 phút hay kết thúc phát sóng là chỉ thấy hình sơ đồ phát sóng,đúng giờ sẽ có tỉn hiệu nhạc dài với hàng chữ “Đài THVN 9” sau đó là phần chương trình do xướng ngôn viên đọc .Đám con nít coi ké theo dõi lắng nghe ,có tên ngồi kiên nhẫn chờ ,có tên về hẹn tới giờ có chương trình giải trí sẽ quay lại không quên nhắc đồng bọn giữ chỗ.
Thường thứ hai bắt đầu bằng chương trình “Đố vui để học “ chia làm hai đội A,B mỗi đội 3 bạn ngồi ở hai chiếc bàn đối diệncó lắp chuông để nhấn khi muốn trả lời câu hỏi .Người hướng dẫn ,đưa câu hỏi nội dung gồm các kiến thức tổng hợp . Bao giờ cũng có đội thắng thua .Phần thưởng không bằng hiện kim như các chương trình hiện giờ , mà bằng hiện vật từ Bộ QGDG hay các nhà tài trợ .Mục đích của chương trình mang tính khuyến học chứ không nhằm vào chuyện thắng thua.Chị em tôi rất mê chương trình này hiếm khi bỏ sót.Các ngày khác thì có chương trình Thiếu nhi tuổi xanh do cô Kiều Hạnh phụ trách ,khi thì kể chuyện,hôm thì dạy nhạc ,dạy hát
Như thường lệ ngày nào cũng có phần tin tức :điểm tin thời sự quốc ngoại,quốc nội ,tin kinh tế ,chính trị ,chiến trường ,Điểm báo …Chương trình “Người dân muốn biết” nhằm giải đáp thắc mắc về Luật Pháp,Hiến pháp quốc gia và những điểu dân phải biết mà tôn trọng và tuân theo, Sau đến là phần giải trí rất đa dạng ,mỗi ngày mỗi khác nhưng theo lịch cố định .Ví dụ thứ hai ,ba , tư gồm các chương trình ca nhạc các ban “ Tiếng tơ đổng” của nhạc sĩ Hoàng Trọng, ban hợp ca “Thăng Long “(gồm các ca sĩHoài Bắc ,Hoài Trung,Thái Thanh,Thái Hằng ) ,ban “Sao Băng “ (có Thanh Phong ,Phương Đại ,Duy Mỹ) ban AVT (gốc gồm Anh HảiVăn Sơn Tuấn Đăng ) thỉnh thoảng xen kẻ các chương trình ca vũ nhạc kịch Tổng hợp như chương trình “Hoàng Thi Thơ” thường có ca sĩ Bùi Thiện,Sơn Ca ( nghe má nói ca sĩ Bùi Thiện là người thuộc dạng chiêu hồi) ,Hoạ Mi…Ban Tạp lục Tùng Lâm “Xập xám chướng” có Trang Thanh Lan, chương trình ca nhạc khác do MC Trần văn Trạch chủ xướng
Chương trình ca nhạc xiếc Bảo Thu ,chương trình “Tiếng hát tuồi 20” thường có mặt ca sĩ Thanh Lan ,Nhật Trường .Bài hát được dựng ấn tượng nhất mà tôi còn nhớ là “Anh không chết đâu em “ với hình ảnh người thiếu phụ đơn côi (cs Thanh Lan) ngồi may vá cạnh đứa con trai đang ngủ say, người chồng (cs Nhật Trường ) trở về trong bộ quân phục mặt mũi tay chân đầy thương tích …Còn bải hát “ Người chết trở về” nói về mối tình của viên sĩ quan Phạm Thái và người tình Nguyễn thị Mộng Thường được dựng thành phim và gắn kết với bài Tình Thiên Thu.Dù là câu chuyện hư cấu nhưng nó mang màu và mùi của cuộc chiến tranh nóng bỏng đầy đau thương!
Không thể không nhớ đế các ca sĩ trưởng thành qua sự rèn luyện của nhạc sĩ Nguyễn Đức,Mạnh Phát như Phương Hồng Quế ,Phương Hoài Tâm ,Thanh Tuyển với những bài hát có liên quan đến người lính CH ,và Hùng Cường ,Mai Lệ Huyền độc quyền nhạc kích động ,nhảy Agogo.Ngoài ra còn có ca sĩ đàn anh ,đàn chị như cs Anh Ngọc ,Kim Tước ,Quỳnh Giao trẻ hơn thì phải kể Anh Khoa (thường ngồi khi hát) Elvis Phương Thái Châu ,Chế Linh.Các giọng ca nữ ma mỵ quyến rũ như Khánh Ly ,Lệ Thu,Thanh Thúy Ngọc Minh….và còn rất nhiều không kể xiết ,chương trình ngâm thơ có giọng ấm áp của Hoàng Oanh ,Hồng Vân ,Thúy Vinh ,sáo trúc Đình Nghĩa . Nhạc trẻ nhạc Việt hóa cũng sôi nồi không kém :Ban Tam ca The cat’s Trio( Ba con mèo với Kim Anh ,Uyên Ly,Mỹ Hoà -sau này cs Minh Xuân thay thế cs Mỹ Hoà) và Carol Kim gắn liền với “ Cái Trâm em cài “ Coni Kim với “ Tuổi trẻ và chiển tranh” ,Cathy Huệ “ Người yêu nếu ra đi”( if you go away) …
Ca sĩ ngày trước lên sóng luôn ăn mặc chỉnh tề,nghiêm túc .Nam trong bộ Complet thắt cravate,hoặc quân phục ( nếu hát nhạc lính) Nữ trang nhã trong bộ áo dài .Họ nghiêng về cái hồn của bài hát chứ không phô diễn ngoại hình như hiện giờ .Vì thế mỗi ca sĩ đều có một phong cách riêng đáng trân trọng & khâm phục
Trên đây là phần âm nhạc .

Ngày thứ năm những năm chiến tranh sôi sục có chương trình Tồng động viên,phóng sự chiến trướng ,vinh danh các lực lượng quân đội và lời kêu gọi của Tổng thống NVT

Thứ năm cũng là ngày dành cho phần kịch nghệ .
Ai đã từng xem TV trước 75 sẽ nhớ hoài các bạn kịch “Sống” của nghệ sĩ Tuý Hồng kèm đoạn nhạc “Sống ,sống đây rồi ,sống đem vui cho đời!” ,Ban kịch “Kim Cương”nồi tiếng làm rơi nước mắt với “Lá sầu riêng” Ban kịch Thẩm Thuý Hắng có “ Chiếc áo cưới màu hoa cà”, chương trình kịch kinh dị “Lúc không giờ” các kịch sĩ nồi tiếng bấy giờ Huỳnh Thanh Trà,Vân Hùng,Ngọc Đức,Bảo Ân ,Kiều Phượng Loan ,Ngọc Đan Thanh , Kim Cương,Tuý Hồng ,Thẩm Thúy Hằng ,La Thoại Tân nghệ sĩ Tường Vi,Hoàng Mai …
Dạng kịch nói giọng Bắc có ban kịch Duy Lân,Duy Chức .Thật ra kịch bản cũng sâu sắc nhưng không thu hút nhiều khán giả Nam rặc , trừ những khán giả đặc biệt yêu thích .

Thứ sáu có “chương trình Quân đội “ “Thép súng”Không biết vì sao ngày đó mới 10 tuồi (1973)mà tôi rất thỉnh xem chương trình này .Những phóng sự chiến trường bom đạn khốc liệt ,những cuộc chiến đấu giáp mặt với đối phương …Hy sinh mất mát có ,chiến thắng có .Những bài hùng ca khiến tôi khâm phục QLVNCH .Hình ảnh những tù binh đối phương bị bịt mắt và đuợc phía ta đổi xử tử tế .Tôi rơi nước mắt khi có những đoạn chiếu Nghĩa trang Quân đội với những ngôi mộ mới đắp của những người lính trẻ vừa ra trận đã hy sinh , thương cảm những quả phụ gục khóc bên tấm bia ghi tên chồng .Lúc đó tôi thầm cảm ơn các chiến sĩ ngoài mặt trận đã dũng cảm chiến đấu giữ bình yên cho Sài Gòn đề tôi và những người dân có thể bình tâm ngồi thưởng thức chương trình TV mỗi đêm , dù thỉnh thoảng vẫn nghe xa xa tiếng đại bác hay bom dội vọng về hay nhìn thấy hoả châu rơi sáng rực ngoài trời .

Thứ bảy là xôm tụ nhất với chương trình Sân khấu kịch trường với hai biểu tượng mặt cười mặt mếu ,tức là có bi có hài .
Bàn về cải lương thì lượng khán giả trung niên hầu như không bỏ sót , nhất là những vỡ diễn để đời của đoàn Thanh Minh -Thanh Nga ,qua tài soạn giả kỳ cựu : Năm Châu “ hay Hà Triều Hoa Phượng như “Sân khấu về khuya”,”Tấm lòng của Biển ,”Con gái chị Hằng “ “ Lỡ bước sang ngang “”Giấc mộng Đêm Xuân” “Tuyệt tình ca” “Nữa đời hương phấn “…đã lấy nước mắt bao nhiêu khán giả dù có xem đi xem lại nhiều lần .Các nghệ sĩ gạo cội của đoàn này phải kề đến cặp đôi ăn ý Thành Được ,Thanh Nga ,Thanh Tú -Trang Bích Liễu ,Thanh Sang ,Hữu Phước Ngọc Giàu ,Hoàng Giang -Kim Giác ,Phượng Liên Diệp Lang ,sầu nữ Út Bạch Lan,Nam Hùng Thanh Thanh Hoa ,Việt Hùng -Ngọc Nuôi “Mỗi người một vẻ , mười phân vẹn mười” .Cho đến nay sân khấu Cải lương không ai có thể thay thế họ .Một đoàn khác cũng không kém nối tiếng là đoàn Dạ Lý Hương với các vở”Lệnh của bà “,”Bí mật của nàng” ,”Con ma nhà họ Hứa ” nghệ sĩ gồm Bạch Tuyết Hùng Cường ,Dũng Thanh Lâm ,Mai Lan , Hoàng Long -Kim Ngọc nghệ sĩ hài Kim Quang Tư Rọm và Văn Chung với giọng cười “dê” có một không hai.Ngoài ra còn có các đoàn Kim Chung1,2 ,Hoa anh đào Kim chưởng ,những tên tuổi như Lệ Thuỷ Mình Vương Mình Phụng ,Thanh Kim Huệ ,Diệu Huê ,Kiều Tiên …những đoàn này thường diễn các vở kiếm hiệp ; Đoàn Hương Mùa Thu với nghệ sĩ Ngọc Hương ,Hoài Thanh-Đỗ Quyên , Hồ Quảng phải kể đoàn Mình Tơ -Khánh Hồng chuyên về tuồng tích Tàu ,họ diễn rất đạt qua các thế múa vũ đạo trượng ,thương ,đao kiếm và biểu lộ cảm xúc bằng đôi mắt ,có phần giống hát bộ , nhưng giai điệu hồ quảng nhiều hơn Nhắc đến đoàn này phải kể đến nghệ sĩ Thanh Tòng ,Thanh Bạch,Bạch Lê,Đức Lợi ,Kim Mai ,Bửu Truyện Thanh Thế …tài danh một thời!
Về thể loại Hát bộ ,hát chèo cũng có những vớ nồi tiếng như “Lữ Bố Điêu Thuyền “”Đào Tam Xuân loạn trào “ Quan Âm Thị Kính nhưng dân trong xóm hầu như không kiên nhẫn và ít hào hứng hơn các loại hình nghệ thuật khác
Vào năm 1970 ngày Chúa Nhật Đài số 9 thường phát sớm hơn .Bắt đầu từ 15 giờ chiều có chương trình “Kiến Càng” .Đây là chương trình dưới dạng thể thao,luyện tập cơ bắp,thể hình , thường phái nam quan tâm đến nhiều hơn.Kế đến là chương trình”Hoa Thế hệ” ,một dạng giới thiệu rèn luyện những gương mặt tài danh cho loại hình sân khấu cải lương trong tương lai..Các vỡ diễn thường chú trọng đến lịch sử Việt như :Vua Hùng dựng nước ,Trọng Thủy ,Mỵ Châu ,Hai bà Trưng ,Bà Triệu ,vua Quang Trung…Nghệ sĩ cải lương Phượng Mai là một trong những diễn viên trong chương trình này .( Tôi biết được vì hay xem trước đây)
Một phần giải trí khác gây tiếng cười thoải mái vào tối Chúa Nhật là chương trình 45 phút chuyện vui với các danh hài rất có duyên như Thanh Việt, Thanh Hoài ,Khả Năng ,Là Thoại Tân ,Xuân Phát ,Mỹ Chi,Anh Thư. Tuý Hoa…họ diễn có kịch bản , nghiêm túc không la hét ồn ào gây cười rẻ tiền như các show hài nhan nhản hiện nay
Trước 75 ,chương trình truyền hình ít có phần quảng cáo nên nội dung giải trí không bị gián đoạn nhiều .Nếu tôi nhớ không lầm thường đầu mỗi chương trình chỉ dành vài phút biểu dương lực lượng quân đội ,những câu kêu gọi bảo vệ hòa bình quốc gia ,lảnh thổ Nam phần không nặng tính tuyên truyền và tôi vẫn còn nhớ một đoạn phim có hình ảnh một bóng áo đen phủ từ đầu đến chân ,loạng choạng sờ sẫm bức tường nghĩa trang lộ ra một mặt sọ người trong nên nhạc ma quái và âm thanh echo nghe rùng rợn sởn tóc gáy :” Tôooi đãaaa Chếet vìiii maaaa túyyyyyyy….
.
Ngoài những chương trình kể trên .còn có Chương trình Quê hương với nhạc nền là tiếng đàn bầu ,cảnh sông nước mênh mông hàng dừa ,mái tranh , con đò và giọng hát đầy tình quê chan chứa đầy cảm xúc của ca sĩ Thái Thanh “Tình hoài hương
Rồi nào là Chương trình Chiêu Hồi kêu gọi những người phía bên kia về với Chính nghĩa Quốc gia qua phần nhạc đệm “ Ngày về” của nhạc sĩ Hoàng Giác
Thường 22 giờ là “ Bản tin cuối cùng” tức bản tin tóm lược thời sự và vài tin mới nhận được.Đến giờ này các xướng ngôn viên TH thường nhắc nhở” Bây giờ là 22giờ xin quý vị khán thỉnh giả điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để không làm phiến mọi người chung quanh “ .Tới phần này là khán giả coi ké rục rịch đứng lên , chuẩn bị ra về cho chủ nhà đóng cửa nghĩ ngơi.
Vậy chứ coi TV ở nhà chú Tư Nông thì khác
Hết đài VN , không cần hỏi chú bật qua băng tần số 11 đài Mỹ (đây là điểm đặc biệt mà các TV nhà khác không có) coi tiếp các phim hành động , điệp viên mà hồi đó đám con nít trong xóm hay kêu cái tựa phim là “Mission” , hay phim cao bồi “Quen xì Quét “( Wild Wild West) có mọi da đỏ bắn cung ,phóng mũi tên , cưỡi ngựa từ đỉnh núi cheo leo ,rượt đuổi đánh nhau với người Mỹ da trắng ,nào là phim ”Combat “,”Lổ tại Lừa “ ( cũng không nhớ tên gốc là gì?) .Thời điểm này hơi quá khuya ,khán giả cũng thưa dần ,chỉ có dân ghiền và tỉnh táo không ngủ gật mới có sức theo dõi hết .Tôi cũng nhớ đài Mỹ bắt đầu bằng mục quảng cáo xe Jeep với tốc độ húc đỗ bức tường ,rồi xuyên qua ,sau đó từng viên gạch được lắp lại
Năm 1972 ,”Mùa Hè đỏ lửa” nhà bên cạnh chủ Tư Nông gia đình hai chị em người chị có con trai nhập ngũ được hai năm đơn vị báo về mất tích ( là anh đã cõng tôi chạy loạn năm Mậu thân) ,tháng sau chồng của người em tử trận không toàn thân,.Đẩu năm 1973 con trai lớn chú Tư tử trận .Vợ chú khóc vật vã,chú cũng buồn .Sau một thời gian chú chuyển nhà đi nơi khác .Chủ đến chào từng nhà chung quanh , với đám trẻ con coi TV quen thuộc chú hơi ngậm ngùi ,hứa có thời gian rảnh sẽ về thăm lại tất cả.
Gia đình chú dọn đi không lâu ,căn nhà ngay phía sau nhà tôi -chủ nhà là Dì bảy làm việc trên khu căn cứ Long Bình mua một TV National 12 inches.Từ nhà bếp nhà tôi có thể xem TV qua cửa sổ nhà dì bảy .Dì cũng tứ tế mờ rộng cửa cho hàng xóm vô coi ké .Cũng như chú Tư dì để suốt chương trình từ đầu đến cuối giờ ,tiếc là TV của dì bảy không “bắt" được đài Mỹ.
Sự nghiệp coi ké TV hàng xóm của chị em tôi kéo dài cho đến năm 1992 chị tôi mới mua được cái TV trắng đen mới do Vietronic Thủ Đức sản xuất
Lần đầu tiên sở hữu một TV cũng mừng ,nhưng chương trình so với trước không có gì hứng thú !
Dẫu biết rằng “Có còn hơn không” nhưng ký ức về cái thời tuổi thơ đi coi ké vẫn hằn sâu ,có những đứa bạn cùng coi ké dễ thương và có rất nhiểu điều đáng nhớ ,nhất là tình làng nghĩa xóm của một thời - như chú Tư Nông một hình ảnh khó quên !

05/06/2021-Rose Hdn

Thanked by 2 Members:

#214 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 11/06/2021 - 21:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·






RÀO TRĂNG 2020- KHE THAI 1973 (4)
Từ tháng 7 năm 73 vể trước tuyến đường gùi gạo và đạn của lính cánh bắc Thừa Thiên rất dài và hiểm trở: Dốc Đức Mẹ - Khe Thai ( Rào Trăng ) - dốc Chuối - dốc Thám báo - Khe Ốc - dốc Liếm Gối ( dốc 600) - cây số 36 . Hành quân từ sáng sớm chiều tới nơi, nhận gạo, đạn, nấu ăn, mắc võng nghỉ, sáng hôm sau quay về, 5-6 giờ chiều về tới hậu cứ.
Đi gùi gạo còn đỡ, cáng thương binh còn vất vả hơn. Khe Thai mùa mưa nước lũ về, cáng thương binh phai mất 4 người, 2 người một đầu giơ cáng lên cao cho khỏi ướt còn người thì ngâm trong nước sâu đến ngực. Lúc leo dốc, một người phía trên 3 người phía dưới đẩy lên . Nhiều chỗ dốc quá phải ròng dây đưa lên. Không hiếm lần cả người lẫn càng trượt chân ngã lăn xuống vực. Và cũng không hiếm lần bị pháo kích, bị B52, gặp biệt kích thám báo, bị vấp mìn.... cả thương binh lẫn người cáng hy sinh. Dọc đường đi chúng tôi vẫn gặp những nấm mộ liệt sỹ, cái có bia cái không bia , những nấm đất hoang lạnh phủ đầy lá mục giữa rừng hoang giá lạnh.
Chúng tôi hành quân từ bắc , từ Hòa bình vào tới Thừa Thiên , qua cả Lào , nhưng không thấy ở đâu nhiều mộ liệt sỹ như ở thung lũng Khe Thai . Các anh lính cũ vào từ 65-66 kể lại, vùng này ngày trước là chiến trường ác liệt, sau những trận đánh ngổn ngang xác lính. Bọn Mỹ dùng trực thăng lấy hết xác lính Mỹ, sau đó ném bom rải thảm thiêu hủy hết lính cả hai bên. Năm 68 đây là con đường bộ đội ta tấn công giải phóng 3 huyện cánh bắc, lúc rút lui đich phản kích, lính ta rút lên A lưới , thương binh bệnh binh phải bỏ lại dọc đường. Hy sinh không biết bao nhiêu mà kể. Lúc làm trai tăng gia ở bờ Khe Thai, anh em chúng tôi đào lên nhiều bộ hài cốt đa phần không nguyên ven, chỉ có vài cục xương gói trong bao ni lông đựng gạo.
Tháng 7 năm 73 từ Cây số 36 công bình mở đường xuống tới Củng Cáp, đầu nguồn của Khe Thai. Bỏ đoạn đường rừng từ dốc Chuối, chúng tôi lội ngược Khe Thai thêm 1-2 tiếng nữa là gặp đường xe. Đường tuy dài hơn nhưng dễ đi vì không phải trèo đèo lội suối. Trên đường về gặp các o du kích Phong điền, hai bên chào nhau, trêu nhau, cười như nắc nẻ
- Em ơi mệt không, anh gùi cho nhé
- Các eng có đủ sức gùi cả em không?
Lính ta thì thào, Đi cả ngày ... bốc mùi.. . Rồi thách nhau, đố thằng nào hỏi , em ơi có ruốc tôm không, t*o mất cho phong lương khô đấy
Mấy anh lĩnh cũ nạt
- Này đừng có trêu, các o cho xơi kẹo đấy
- Ghê thế hả anh
- Sao nữa, bọn t*o giải tù bình lên, các o kêu, các anh thịt đi, cho nó viên đạn. Có o nổi tiếng giết tù binh bằng cách lấy báng súng phạng vào gáy.
Lính ta lè lưỡi lắc đầu .
Các anh kể tiếp, không như lính chủ lực cánh ta, du kích hoạt đông hiểm nguy lắm hy sình nhiều lắm. Ban đêm từ rừng mò xuống đồng bằng lấy gạo, gây dựng cơ sổ, liên lạc với dân. Nhiều o bị phục kích, bị bắn chết, chúng lột trần truồng, phơi xác mấy ngày cho dân sợ. Cho nên họ căm thù, bắt được tù bình nếu không có bộ đội là các o đập chết luôn .
Sau này được đi cùng các anh chỉ huy làm việc với huyện, tôi cũng hỏi chuyện, các o gật đầu, chúng em hoạt động bí mật, đưa lên căn cứ nhốt chúng vào đâu, địch càn không xuống dân được, chúng em còn phải nhịn đói, ăn lá rừng, nhanh nhất là thế này, các o chém tay vào gáy. Sao không bắn? Bắn phí đạn.
Nói chuyện với chú Tho bí thư huyện, tôi khen, các o du kích của chú gian khổ vất vả mà vẫn trẻ và xinh đẹp thể chú. Chú ngậm ngùi , đa phần chỉ bám được 2-3 năm, trù những đứa bị thương hay ra bắc học còn lại hy sinh hết , lại phải xuống đồng bằng lấy lên.
Viết tới đây tôi lại bồi hồi nhớ thắng bạn thân của mình Đào Văn Cường xã Kim Lan Gia Lâm Hà Nội, nó chết tháng 4 năm 73 cũng chỉ vì đường lên trạm phẫu quá xa, đi mất 2 ngày, lúc nó sốt rét đơn vị vào chiến dịch nên không có người cáng đi viện. Nó là người sống vì bạn bè, suốt dọc đường Trường sơn, nó giúp tôi, lúc thì đeo ba lô lúc mang hộ khẩu súng, hai thắng như hình với bóng, ngủ chung dưới 1 mái tăng đắp chung một tấm ni lông giữa đêm mưa rừng. Nó mồ côi cá cha lẫn mẹ, theo chính sách không được nhập ngũ nhưng vẫn làm đơn tình nguyện. Hai anh em côi cút sống trong ngôi nhà lá mái trống hốc trống hoác nhìn thấy cả trời. Được cái cậu khỏe mạnh cường tráng, suốt ngày theo chú trên thuyền đánh cá, nước da nâu bóng rất đàn ông.
Hôm tiểu đoàn lính Hà nội trú quân 3 ngày ở rừng Nghĩa đàn cùng với một tiểu đoàn lính nữ, buổi chiều các lính ra sông tắm, cả trai cả gái tắm lẫn lộn. Nó bảo, mày chờ xem t*o dọa các cô một trận. Chưa hiểu cái gì mình đã thấy nó ngụp một cái, lặn mất tăm. Bỗng các cô ré lên, hốt hoảng chạy té tát lên bờ, còn thằng Cường ngoi lên cưới tý tởn. Tôi hỏi, mày hả, nó gật đầu, hì hì, đá kỳ, đá kỳ.
Hình như trò đùa của nó lại làm mọi người phấn kích, tất cả lại ào xuống, đùa nhau, té nước, tiếng hét tiếng cười náo động cả một khúc sông
Mùa mưa năm 72, nằm trên núi Cao bồi, mưa như trút nước suốt ngày suốt đêm, hai thằng nằm bên nhau nhớ đất bắc nhớ Hà Nội. Nó hen tôi bao giờ hòa bình trở về. nó sẽ bắt một con cá chép thật to nấu với khế mời tôi ăn. Thế mà vào đến Khe Thai thì nó chết.

Thanked by 1 Member:

#215 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 11/06/2021 - 21:53

Vượt biên, vượt biển, vượt dòng!
Cô bạn làm chủ ghe, cho tui đi vượt biên theo, chỉ với 1/2 giá. Ngồi chung cyclo với cổ ra bến xe Chợ lớn xuống Mỹ Tho... tui hỏi “Ê mầy, lỡ bị bắt t*o phải khai làm sao?“ Chèn ơi, cổ véo tui một cái đau điếng rồi mắng “Mầy thiệt vô diên, miệng ăn mắm ăn muối nói chuyện xui rủi“.

Mà xui thiệt. Ghe lớn ra cửa Vàm Láng không bao xa , thì bị túm gọn. Vô trại tạm giam, ông cán bộ răng dzàng đập bàn xong, rồi hậm hức chỉ tay vào tui ( đang ngồi sắp lớp hàng đầu ) hỏi “ai là chủ ghe ?” Theo phản xạ ..ba trợn , tự dưng tui đứng phắt dậy mắt dáo dát tìm nhỏ bạn. May... mà định thần kịp, ngồi xuống liền. Ổng răng dzàng túm áo tui, hầm hè hỏi lần nữa “ai là chủ ghe?“ Chợt thấy tên du kích áo đen hồi nãy lăng xăng nạt nộ những người bị bắt, tui chỉ đại vào hắn. Cả đám người ngồi đó cười rần. Tui ăn một bạt tay trời giáng, bể m.ịa một cái tròng kính cận (May... không bị rớt... răng). Nhưng vàng, nhân sâm đeo trong mình bị lột sạch. Chỉ ký tên vô sổ ngang cái dòng: Trại có giữ 5 miếng kim loại màu vàng, thôi!
Chuyển trại giam lớn Mỹ Tho. Người nhà tui chạy tiền liền - để tui về cho kịp -sợ bị mất chỗ làm việc. Cán bộ đọc tên từng người trao giấy thả tù. Ổng đọc đi đọc lại Nguyễn thị Hương, tui cứ ngồi im lặng... xa vắng mãi . Bị tên côn an trong phe cánh đá nhẹ một cái nói “Bà đó bà!“ Tui đứng lên nhận giấy còn càm ràm “Tên tui sao thiếu chữ Xuân“ Ông cán bộ trao giấy nói nhỏ “Vậy chứ hồi bị bắt, má khai tên gì vậy má? “ Thế là tui nhớ trực vụ khai tên, năm sanh - địa chỉ công việc... xạo sự của mình liền. Hú vía, may mà được tha .
Ra khỏi trại 2 giờ trưa, áo quần rách bươm - cặp mắt kính lọt mất một tròng - dép cũng mất luôn. Quan trọng nhất là trại giam lờ tít chuyện trả lại cho tui 5 miếng kim loại màu vàng - vậy tui còn gì để bán mà kiếm tiền về xe đây, chẳng lẽ lội bộ từ Mỹ Thơ dìa Sài Gòn sao? Tui đọc kinh khấn hết Chúa đến Đức Mẹ cứu giúp... lội bộ một đoạn đường xa, mà chân bỏng rát. Cuối cùng tui bấm gan vẫy đại một chiếc xe ôm, chìa giấy thả tù, tui nói “Cháu vượt biên được thả, giờ không tiền, nhưng nhà cháu ở Sài Gòn thì có tiền trả. Chú giúp dùm cháu phương tiện đi về nhà được không. Cháu thiệt đội ơn chú“ Ông xe ôm trông hơi đứng tuổi - người khắc khổ mặt nám đen còn đeo mắt kính đen thiệt ngầu, nhưng giọng thì hiền khô hỏi “Vậy cháu có dám ngồi xe ôm, dang nắng về Sài Gòn không?” Nghỉ sao mà con nhỏ chột mắt kiếng, quần áo rách bươm không dép như tui lúc đó, lại có thể giở giọng tiểu thư ngại nắng ăn lắc đầu... được. Tui trèo lên xe liền, không thèm hỏi giá, nói xong địa chỉ là ôm cái eo ổng ...ngủ gục miết . ( Bị trại giam chật chỗ ngủ ngồi) tui lại bị nhét ngồi gần cầu tiêu... Mùi nồng nặc xông lên... mắt trợn trừng đau khổ, ngủ gì nỗi mấy đêm nay, hở trời?
Xe chạy gần qua Chợ Bến Thành , ổng mới kêu lớn cho tui thức dậy để hỏi kỹ đường về quận 4 nhà tui . Chắc ổng nghe bụng tui kêu rột rột hay sao đó.. .mà nói “Chắc cháu đói bụng dữ rồi phải không, chú cũng chưa ăn gì. Thôi chú chở cháu ăn bậy tô mì dằn bụng, rồi chở cháu về “Chèn ơi, buồn ngủ mà gặp chiếu manh, tui gật đầu liền... Coi như gần cả tuần nay từ chỗ ém quân chờ ra cá lớn - đến khi bị bắt nhốt - tui chưa được ăn đúng nghĩa bao giờ. Tui ăn hỗn hào, ào ào một lúc hai tô mì và ly trà đá bự tổ chảng. Trong khi chú xe ôm chạy cực khổ đường trường, ăn nhỏ nhẹ có một tô mì và ly cafe đen nhỏ xíu thôi. Trời xế chiều nhưng còn sáng. Tui ngần ngại nói chú ấy có thể chờ sụp tối một chút rồi chở tui về nhà , vì tui ngại hàng xóm và công an khu vực thấy quần áo và bộ dạng của tui như vầy, sẽ biết tình cảnh vượt biên của tui liền. Như vậy dễ di hại cho tui về sau. Chú Hiền (Tui biết tên chú sau đó) cũng gật đầu chịu. Hai chú cháu ngồi quán cóc lề đường, uống trà đá chuyện trò rôm rã. Chú nói chú mới ra trại cải tạo, nhà ở Sài Gòn. Nhưng không nhập được hộ khẩu ở Sài Gòn, bị chỉ định về quê. Để sinh sống, chú chạy xe ôm. Hôm nay nhân dịp chở tui về Sài Gòn, chú sẽ ghé qua nhà thăm ba má chú luôn. Chú nói ngó bộ dạng của tui, là chú tin tưởng con nhà đàng hoàng, sa cơ bị bắt vượt biên. Nên chở tui đường xa, không ngại bị lường gạt quịt tiền. Sụp tối tui về được đến nhà, cả nhà mừng húm. Trả tiền công chú Hiền hậu hỉ và còn ghi lại địa chỉ nhà chú ở Sài Gòn để liên lạc thăm viếng sau nầy.Chị tui nói, chạy cho tui dzìa mất một cây vàng, nhưng họ nói đến ngày mai mới thả. Đâu dè họ thả sớm một ngày như vậy?

Sáng mai tỉnh táo dọn bộ vó đi làm. Vô sở, mọi người trợn trừng mắt ngạc nhiên, coi như tui vắng mặt không xin phép đã 3 ngày, trừ đi hai ngày lễ 30/4 và 1/5 cùng ngày Chúa nhật. Hú vía gần cả tuần chứ đâu phải chơi. Tui bèn đi một đường kể khổ... bị té bong gân sưng chân nằm một chỗ. Bố tui già cả không biết sở tui ở đâu để xin phép. Nhưng ngó cái mặt ăn nắng đen thui của tui, là họ thừa biết tui nói láo liền. Có lẽ Chúa thương phù hộ cho công trình tui đang quản lý tới lúc nghiệm thu... Vắng tui, ai lên giá thành thanh quyết toán. Tui ở lại làm nốt công việc, với cái án treo lơ lửng. Họ chờ dịp trừng phạt tui. Tui thì chờ kỳ vượt biên mới, nhất định là mình phải vượt thoát khỏi Việt Nam..... Cô bạn tui, nhà cổ cũng lo chạy chọt, nên cổ ra tù sau tui vài ngày. Năm sau cũng vào dịp 30/4, mùa gió êm. Nhà cổ tổ chức thêm một chuyến vượt biên mới, nhưng cổ không rủ tui đi tiếp. Chắc cổ nghỉ tui là con nhỏ ba trợn tào lao ăn nói vô duyên khiến cổ dễ bị xui xẻo chắc? Nhưng ghe của cổ ra cửa lớn, chỉ chung chi công an bến bãi, mà qua mặt không chung công an biên phòng. Họ rượt theo bắn chìm ghe cổ, chết tan tác mấy chục nhân mạng luôn. Mạng tui lớn hay nhỏ xíu, khi không theo chuyến vượt biên đó? Còn cô bạn tui, cổ không hên mà xui xẻo mất mạng.
Mấy chục năm trôi qua, mà tui vẫn nhớ hoài cái véo tay đau điếng của cô ấy. Nghỉ đến rồi thương cổ, và thương cho những người Việt Nam đã bỏ mạng trên biển đông ..khi bỏ phiếu đi tìm tự do bằng đôi chân của mình.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#216 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 11/06/2021 - 22:52

NGƯỜI BẮC VÀO NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20

Từ năm 1910, đã có người Bắc vào Sài Gòn làm ăn sinh sống nhưng số lượng rất ít, chỉ có vài công chức bị thuyên chuyển hoặc những người có chuyện bất mãn ngoài đó nên tìm vào. Ký giả Vũ Xuân Tự kể: Một ông cụ người Bắc vào rất sớm đã than vãn là đầu thập niên 1920, ông mới vào Sài Gòn, đi hàng nửa ngày trời mới gặp được một người Bắc, rất vui mừng. Từ năm 1920 đến 1928, số người Bắc vào Nam phần lớn lại là người đang có công ăn việc làm hoặc buôn bán, hoặc có chuyện phải bỏ xứ. Họ trở thành lớp người Bắc khá giả ở thập niên 1940 nhờ vào sớm còn nhiều thuận lợi.

Từ thập niên 1930 đến 1940, người Bắc vào ngày càng đông. Người khôn của khó, người mới vào không còn thuận lợi như trước nữa, nhất là nhằm lúc kinh tế đang khủng hoảng. Tuy vậy, cũng có ba người từ tay trắng trở nên giàu có ở Sài Gòn là chủ hiệu sách Tín Đức và hai tiệm may Hoà San và An Thành.

Trước khi khánh thành đường xe lửa xuyên Đông Dương, người Bắc ở Sài Gòn đã có trên mười mấy ngàn người. Sau do giao thông thuận tiện hơn, con số ấy càng tăng. Hội Giác Quang tự, Bắc Kỳ nghĩa trang và Bắc Kỳ ái hữu là ba hội được phép thành lập ở Sài Gòn, tuy có liên quan đến “đền chùa” nhưng có giúp đỡ cho người đồng xứ chẳng may thất lộc nơi xứ xa. Dù sao, người Bắc ở Sài Gòn tự hoạt động kinh doanh là chính, tạo dựng được sự nghiệp, gây nhiều cảm tình cho người Nam để càng lúc càng hiểu nhau hơn. Cho đến đầu thập niên 1940, hầu như lĩnh vực nào ở miền Nam đều có người Bắc tham gia.

*

Giới viết lách là những người thông tin khá cặn kẽ về chuyện làm ăn sinh sống cùng những chuyện đồng nhất và khác biệt giữa đời sống, sinh hoạt, phong tục hai miền cho đồng bào xứ Bắc biết về miền Nam, vùng đất mới nhiều hứa hẹn. Họ còn dẫn chứng nhiều trường hợp thành công của người miền Bắc đi trước. Có người như ký giả Yên Sơn từ miền Bắc vào sống ở Sài Gòn, ghi nhận khá tỉ mỉ cuộc sống đời thường của xã hội, rồi về Hà Nội tổ chức diễn thuyết mấy buổi, có chê có khen, có lúc so sánh nếp sống hai miền quá thẳng thắn và chủ quan đến mức bị phản ứng của người nghe ngoài ấy. Các bài nói của ông còn được đăng lại trong loạt bài “Phong tục và tiếng nói Nam kỳ” trên nhật báo Hà thành Ngọ Báo số 1715, 1718 và 1719 năm 1933.

Một nhà báo nổi tiếng khác là Đào Trinh Nhất viết cuốn “Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ” xuất bản từ năm 1924, gần như là cuốn cẩm nang chi tiết cho người miền Bắc về chuyện làm ăn sinh sống ở miền Nam, về thế lực của người Hoa khuynh đảo nền kinh tế Nam kỳ. Nó đã khiến bao người quyết tâm vào Nam và giúp giới làm ăn miền Bắc có đủ thông tin để cân nhắc khi đầu tư tiền của vào xứ Nam kỳ, trong đó có câu chuyện vua tàu đường sông Bạch Thái Bưởi vì đọc cuốn này mà dừng lại ý định đầu tư vào Sài Gòn vì e ngại thế lực người Hoa.

Một cuốn khác, khá lý thú của ký giả Vũ Xuân Tự, cuốn “Túi bạc Sài Gòn” viết ở giai đoạn sau khi đã có một số người Bắc vào sống ở Sài gòn và tham gia làm ăn buôn bán. Không nặng theo hướng nghiên cứu như ký giả Đào Trinh Nhất, cuốn sách này viết bằng giọng văn phóng sự sinh động, có cái nhìn quan sát sắc bén của người ký giả lăn lộn nhiều ngoài xã hội.

*

Theo Vũ Xuân Tự, năm 1941, con đường Catinat (nay là Đồng Khởi) và đường Charner (Nguyễn Huệ), hai con đường phồn thịnh và đẹp của Sài Gòn là khu thương mại của người Pháp. Tuy nhiên người Bắc vẫn mở nhiều cửa hàng và thậm chí đã nhiều hơn cả người Hoa, vốn được Pháp thừa nhận vai trò buôn bán, phân phối sản phẩm thời thuộc địa. Đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn), Bonard (Lê Lợi) là chỗ thương trường mà người Hoa và Việt chen lấn nhau. Người Việt gồm cả ba miền nhưng người Bắc vẫn nhiều hơn ở đây.

Người Bắc và người Trung vào Nam sinh sống thời đó có nhiều người làm công, buôn bán, mở công nghệ, lập hội… Dân làm công bao gồm cả dân thầy, dân viết báo, dân thợ, kéo xe… chung đụng với đồng bào bản xứ. Khác với người Trung mang sức học vấn hay sức lao động vào dạy học, làm nghề may mặc, kéo xe hay thợ điện, có những người Bắc mang vào cả vốn liếng để phát triển sự nghiệp. Các cửa hàng người Bắc nhan nhản khắp nơi, tập trung nhiều nhất ở đường Sabourain (Lưu Văn Lang) và đường Espagne (Lê Thánh Tôn). Ở đường Sabourain, nhiều người còn nhớ nhà sách Nguyễn Khánh Đàm ở số 14 đường này tổ chức một sự kiện mà giới báo chí còn nhắc là tổ chức triển lãm về lịch sử báo chí lần đầu tiên năm 1943. Những hiệu buôn nhiều hơn bán lẻ, chiếm cả một góc phố Lagrandière (nay là Lý Tự Trọng) gần chợ Mới (được xây từ 1914 nay là chợ Bến Thành để phân biệt với chợ Cũ đã có trước ở đường Hàm Nghi ngày nay) phần nhiều bán vải tuýt-so, lụa, rau quả. Các cửa hàng thêu, đăng ten đều ở đường Catinat, d’Ormay (Mạc Thị Bưởi), Bonard (Lê Lợi) và xa tít trên đường Chasseloup – Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai), trước nhà “sẹc” Tây (nay là Cung Văn hoá lao động thành phố H.C.M).

Chung quanh chợ Bến Thành đều có quán guốc của người Bắc mà sau này còn dấu ấn các cửa hàng giày dép ở đường Lê Thánh Tôn phía cửa Bắc chợ. Khoảng gần chiến tranh thế giới thứ hai, người Bắc mở thêm một dãy quán trên đường Espagne và Chợ Cũ và dọn một dãy hàng bên Chợ Mới bán lẻ tơ lụa Hà Đông. Có lẽ đây chính là lúc danh tiếng lụa Hà Đông bắt đầu phát triển và thành nguồn cảm hứng trong thơ Nguyên Sa “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát / Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông” ?

Sản vật miền Bắc lúc đó có gì ở Sài Gòn ngoài lụa Hà Đông? Đó là nữ trang, the lụa, thuốc lào và cả mắm tôm. The, lĩnh, xuyến miền Bắc thấy bán được quá, người Hoa ở Lục tỉnh (đồng bằng sông Cửu Long) nhảy vào buôn. Hàng tussor Tonkin (tên tiếng Pháp của Bắc kỳ) được người Chà và và Bombay (đều gọi người gốc Ấn độ) ra Bắc buôn chuyến.

Kỹ nghệ miền Bắc cũng được hoan nghênh ở Sài Gòn và Lục tỉnh. Đa số từ miền Bắc gửi vào sản phẩm đã hoàn chỉnh vì chưa có xưởng sản xuất trong Nam. Đó là đồ đồng bán ở đường Espagne gồm hai tiệm khách nước ngoài cũng thích, sơn Resistance (đường Charner), sơn Gecko (đường Lagrandière), cạnh tranh được với sơn ngoại quốc. Tuy nhiên, các mặt hàng khác như đồ thuỷ tinh Bắc Hà, chiếu Phát Diệm bán chậm vì kém quảng cáo.

Có một hiệu lấy tên Au petit Ha Dong mở gần Chợ Mới, bán và quảng cáo nghề thủ công và sản vật Hà Đông. Dãy phố Filippini (nay là Nguyễn Trung Trực) có hiệu làm và bán vòng hoa cườm.

Những hiệu giày, may đầm, va li, mũ, bán đồ gỗ hầu hết của người Bắc. Cùng với dân Nam - Trung, họ cũng mở hiệu giặt ủi, may quần áo Tây, hiệu ảnh…

Giữa thế kỷ XX, một số gia đình ở làng Ngũ Xã (Hà Nội) vào định cư tại vùng Hòa Hưng (nay thuộc quận 10) mang theo nghề đúc đồng cẩn tam khí, hình thành một xóm nhỏ chuyên đúc đồng tam khí ở đây. Sản phẩm của họ là các tượng thờ và đồ gia dụng. Tuy sanh sau đẻ muộn, song giữ độc quyền sản xuất, lại có tay nghề cao, sản phẩm đẹp nên đồng tam khí Hòa Hưng được nhiều người biết tiếng đặt hàng. Làng nhiếp ảnh Lai xá ở Hà Tây đã có vài chục gia đình theo chân cụ Khánh Ký, người đã sớm mở hiệu ảnh “Photo Khanh Ky Saigon” từ năm 1907 ở số 54 Boulevard Bonard (Lê Lợi). Người làng tạo dựng nghề ảnh ở đây và đã nắm phần lớn ngành dịch vụ nhiếp ảnh ở thành phố này từ những năm đầu thế kỷ 20 và nhiều năm sau đó, với 32 hiệu ảnh mở ra tại Sài Gòn từ thập niên 1930-1940.

Tuần báo “Phú Thọ Công Thương”, là cơ quan liên lạc các nhà công nghệ và thương mãi có tòa sọan ở số 17 đường Galliéni (Trần Hưng Đạo, quận I) đã có nhiều cố gắng giới thiệu để quảng bá sản phẩm miền Bắc qua các bài viết trong các số báo trước năm 1945. Trong vài số báo, có: bài giới thiệu về trà Phú Xuân của ông Cao Đắc Tiếu có các loại trà Tàu, trà đen và trà ướp hoa… nổi tiếng ở ngoài Bắc và muốn phổ biến mạnh trong Nam. Cùng số này, có bài giới thiệu xưởng chế tạo máy xay lúa của ông Ngô Ngọc Dư ở số 69 quai de Belgique (nay là Bến Chương Dương và góc Hồ Tùng Mậu), học trường công nghệ Hải Phòng, năm 1927 vào Nam làm cho người Pháp và sau đó mở hãng riêng. Đến thời điểm 1941, xưởng của ông đã có tới hơn một trăm người thợ từ thợ cả đến học việc (số 3 tháng 11/1941). Một bài khác viết về ông Mai Ban, chủ tiệm gỗ Tân Hưng số 196 đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai), đến Sài Gòn năm 1927, trải qua nhiều khó khăn mới phát triển từ 1934 cho đến lúc 1941 có hơn 30 người thợ (số 5-6 tháng 11/1941). Ông Trương Văn Quanh ở số 7 quai de Belgique (Tôn Đức Thắng) từ miền Bắc vào nhận thấy Sài Gòn khan hiếm dầu lửa đã chế ra loại đèn lấy tên là đèn “Họ Trương” đốt bằng mỡ heo, dầu phộng, dầu cao su, dầu cá, dầu dừa… (số 4 tháng 11/1941), về ông Bùi Kỳ với nghề làm nón ở số 172 đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn) với 21 năm hành nghề. Trong số báo 2 ra tháng 5 năm 1942, có bài “Phụ nữ Bắc kỳ bán tơ lụa” nói lên sự gắng gỏi của phụ nữ Bắc đi bán dạo sản phẩm tơ lụa xứ Bắc cho người miền Nam. Tác giả mô tả họ đi khắp nơi ở khắp lục tỉnh, bận áo dài vải đồng lầm, quấn khăn trên đầu, túi vải trên vai, dùng tài năng và mánh lới riêng giới thiệu hàng, cạnh tranh với người Hoa để giành một chỗ bán hàng ở các chợ bằng giọng nói nửa Nam nửa Bắc.

Về ăn uống, người Bắc mở các cửa hàng ăn theo kiểu Bắc với các món đặc sản và hai hàng cháo lòng tiết canh trên Tân Định - Chợ Mới nhưng chỉ thu hút người Bắc, thời điểm trước năm 1945 chưa quyến rũ nổi dân Trung và Nam (cho đến nay món tiết canh cũng phổ biến chủ yếu trong cộng đồng người Bắc). Món phở lại được ưa chuộng ngay từ đầu, rất phổ biến từ giữa thập niên 1950 cho đến tận bây giờ. Người Bắc đã góp cho ẩm thực phương Nam một món ăn ngon thuộc đầu bảng ẩm thực rất được ưa chuộng.

Khác với quan niệm cho là người Bắc vào Nam năm 1954 mang theo món “thịt cầy”: mà khu chuyên bán món nổi tiếng này còn tồn tại là ngã ba Ông Tạ. Khoảng năm 1943, 1944… thịt cầy đã có tại miền Nam cho dù người Pháp không cho phép làm thịt chó. Những người miền Bắc buôn chuyến, vào Sài Gòn, nhớ thịt cầy đã mang theo từ miền Bắc mẻ, củ riềng để làm món quốc hồn quốc tuý của mình. Họ phải làm lén lút. Sau năm 1945, thịt cầy bắt đầu xuất hiện công khai ở Sài Gòn.

Sự kiện cuộc đại di cư năm 1954 của người miền Bắc vào Sài Gòn đã tác động vào đời sống xã hội miền Nam. Khác với từng nhóm nhỏ lẻ lần lượt vào Nam trước kia, người Bắc di cư ở giai đoạn này đông đúc, có nhiều trí thức và văn nghệ sĩ, đã góp một dòng chảy mạnh mẽ vào dòng đời sống miền Nam đều khắp trong mọi lãnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật và giáo dục. Riêng về ẩm thực, các món ăn xuất phát từ đất Bắc như phở, bún riêu, bún thang, bún măng, chả cá, giò lụa, bánh chưng… đã trở thành quen thuộc đến mức người sinh sau đẻ muộn ở miền Nam không biết đó là món từ phương xa đến. Với tính chất dễ dung nạp, đời sống xã hội Sài Gòn – Gia Định ngày càng phát triển phong phú. Đây là đề tài lớn dành cho giới nghiên cứu.

Trăm năm trôi qua, người dân gốc miền Bắc và các thế hệ con cháu đã trở thành những người Sài Gòn đích thực, hoà nhập lối sống của mình vào thành phố rộng lớn này.

PHẠM CÔNG LUẬN

(Trích chương VI “Vài nguồn nhân lực” trong cuốn “Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm” do công ty Phan Book và NXB Đà Nẵng xuất bản năm 2021)

Thanked by 3 Members:

#217 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 12/06/2021 - 21:15

NGƯỜI PHỤ NỮ TRUYỀN CẢM HỨNG NĂM 2021

Một câu chuyện thần tiên giữ đời thường, câu chuyện của người phụ nữ nghèo hết lòng vì xã hội. Nghĩ mà ngậm ngùi, khi các hội, đoàn "ăn bám" tiền thuế của dân đang có mặt đầy rẫy trên khắp đất nước chỉ biết ngồi phòng máy lạnh và hô khẩu hiệu.

Bà Sáu Thia tên thật là Trần Thị Kim Thia (63 tuổi; ngụ xã Hưng Thạnh, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp) tham gia dạy bơi miễn phí cho hàng ngàn trẻ vùng sông nước ở miền Tây vừa được Tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn là 1 trong 20 phụ nữ truyền cảm hứng năm 2021.

Bà Sáu Thia chỉ có một thân một mình, không ai nương tựa. Hằng ngày, bà bán đi bán vé số kiếm sống và nhiệt huyết dạy bơi miễn phí cho gần 4.000 trẻ em miệt sông nước ở miền Tây.

Bà Sáu Thia kể, quê bà ở huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Do nhà nghèo, ba mẹ bà lần lượt qua đời nên lúc 34 tuổi, bà tha hương đến xã Hưng Thạnh làm thuê kiếm sống. Người phụ nữ hơn một đời người dầm mưa dãi nắng làm việc nặng nhọc nên màu da sạm đen, sức vóc lực lưỡng như đàn ông.

Cuộc sống của bà Sáu Thia khó khăn nhưng cứ hè đến, mùa nước lũ sắp về là bà gác hết mọi công việc để dành thời gian dạy bơi cho trẻ. Tính cách hào hiệp và lòng yêu trẻ của bà càng khiến cho nhiều người thán phục.

Suốt 19 năm qua, bà Sáu Thia được nhiều phụ huynh tin tưởng, quý mến gửi con cho bà dạy bơi. Lý giải vì sao bà lo "chuyện bao đồng", bà chỉ cười và nói: "Chứng kiến nỗi đau của những gia đình có con bị đuối nước qua truyền hình nên dạy bơi miễn phí cho hàng ngàn trẻ vùng sông nước để xã hội không còn thấy cảnh trẻ em bị chết đuối thương tâm".

Năm 2017, bà Sáu Thia đoạt giải thưởng KOVA - Tập đoàn Sơn KOVA, hạng mục sống đẹp, tấm gương tiêu biểu trong xã hội. Bà cũng vinh dự trở thành đại diện Việt Nam lọt vào danh sách 100 phụ nữ tiêu biểu toàn cầu do hãng tin Anh BBC bình chọn.

Mới đây nhất, bà Sáu Thia tiếp tục gây bất ngờ khi Tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn là 1 trong 20 phụ nữ truyền cảm hứng năm 2021. Theo Tạp chí Forbes, đây là lần đầu tiên tôn vinh phụ nữ ở mọi lứa tuổi có những hoạt động tiên phong, bứt phá, vượt qua những giới hạn, nghịch cảnh của mình để tạo ra những tác động tích cực.

(Ảnh Bà Sáu Thia được tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn là 1 trong ‘20 phụ nữ truyền cảm hứng’ năm 2021. Ảnh: Forbes Việt Nam)

NGUYỄN NGUYỄN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#218 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 17/06/2021 - 13:57

Chế Lan Viên mạt sát Vũ Hoàng Chương, 1960.
*****

Nhân đọc “Hoa Đăng” của Vũ Hoàng Chương (miền Nam)
- Chế Lan Viên -

Một tờ báo miền Nam gần đây viết:

“Về thơ, ngoại trừ Hoa Đăng của Vũ hoàng Chương đáng đánh dấu một sự chuyển hướng về sáng tác và của Đoàn Thêm một loại tiểu thuyết bằng thơ có tính cách một công trình dài hơi đề cập đến vấn đề nhân sinh xã hội, thì không còn thi phẩm nào có sự cố gắng đáng ta lưu ý”.

Vì lẽ ấy tôi đã tìm đọc Vũ hoàng Chương và Đoàn Thêm. Đoàn Thêm, thôi ta không bàn đến. Chẳng phải cái anh Đổng lý văn phòng của Ngô đình Diệm ấy đã bàn những chuyện chính trị ph.... đ.... gì gì ở đây. Anh ta cũng khôn khéo lắm mà. Vào làm văn, anh ta cũng quên đi những giấy tờ vấy máu của tổng Ngô, để nói đến những chuyện thoát tục, nghìn đời, tập thơ anh tên là Từ Thức. Cái lẽ giản dị để ta không bàn đến vì anh ấy là một kẻ bất tài. Cái tài duy nhất có lẽ là sắp lại, nhai lại những ý, những lời đã mười lần sáo cũ.

Tôi muốn nói đến Vũ hoàng Chương với tập Hoa Đăng. Tôi vốn không yêu nhiều - nhưng vẫn là yêu - cái tài không lớn lắm nhưng vẫn là tài của nhà thi sĩ họ Vũ. Nước nhà đã độc lập, giải phóng trên một nửa, miền Bắc đang tiến vào cuộc sống xã hội chủ nghĩa huy hoàng, cuộc đời của dân tộc và của từng người đã có tự do, hạnh phúc. Nhưng (hoặc chính vì lẽ ấy) mỗi khi quay nhìn dĩ vãng, tôi vẫn thương cho những con người kiểu Vũ hoàng Chương:

… Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
… Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
… Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ thua ngả bóng chiều…

Cũng có một lúc tôi đã từng quí nhà thơ ấy. Tôi biết anh theo kháng chiến với cả bàn đèn, dọc tẩu và những tâm tình hỗn độn của mình, nhưng nghĩ mà xem, ngày hôm qua, nhà thơ kia chỉ có những giấc mơ rất xoàng:

Mãi mê theo sự nghiệp
Quá trớn lỡ giàu sang…

Thế mà ngày hôm nay anh đã mang vào mình cái ước vọng một dân tộc:

Ba kỳ hỡi hỡi! người dân Việt
Mau võ trang cùng tiến bước lên
Cùng tiến bước mau! thề một chết
Đòi hoa Hà-nội sóng Long-Biên
(Nhớ về Hà-nội vàng son)

Làm sao lại không yêu mến một sự thay đổi bước đầu như vậy được.

Đá thử vàng, gian nan thử sức. Anh đã bỏ kháng chiến mà “về” thành, giữa lúc cuộc kháng chiến gian nan nhất, đang cần sức lực, tài năng của từng người một. Nhưng tôi vẫn thương anh, như thương những người đàn bà yếu đuối chạy Tây không nổi, phải bế con hồi cư, - mặc dầu cái ví von ấy thật là mỉa mai đối với anh là người đã hô:

… Bút cũng như gươm thề chẳng thẹn
Với lời hô Cách mạng thành công…
(Nhớ về Hà-nội vàng son)

Âu đó cũng là lời hô trên mặt giấy, trong một lúc.

Thực ra đó cũng là lúc đẹp nhất của đời anh, và trang giấy kia là trang giấy sạch sẽ nhất. Thỉnh thoảng ra chơi các cửa ô Hà-nội, tôi vẫn nhớ mấy câu thơ anh ấy viết:

Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại
Năm cánh xòe trên năm cửa ô
(Nhớ về Hà-nội vàng son)

Và thật là bao dung thay tấm lòng của chúng ta, tấm lòng những người mang cái tình và cái chính sách nhân hậu của Đảng. Vũ hoàng Chương bỏ chúng ta mà đi. Nhưng chúng ta không nỡ bỏ Vũ hoàng Chương. Tôi nghĩ họ Vũ đang đau khổ, hối hận cho bước đường lầm lỡ của mình ở Sài-gòn. Tôi nghĩ anh Vũ nhớ mãi năm cửa ô trong cuộc đời, năm cửa ô trong thơ anh, năm cánh hoa trong tâm hồn dân tộc…

Cũng vì vậy, mà tôi vội vàng đọc Hoa Đăng.

*
Một tập thơ kém, hay là xoàng, cũng được. Nhưng thôi, chuyện kỹ thuật trái mùa, cổ lỗ của anh ta sẽ nói sau. Thực ra, báo chí miền Nam cũng có người không phải là khen Hoa Đăng như câu ở đầu bài tôi trích. Nguyễn văn Xuân viết ở Bách Khoa:

“Cái điều khiến ông thất bại trong mặt tâm tình, chính vì ông không quá thiết tha với những mối tình mà ông diễn tả. Nói cách khác, hình như ông không còn những tình cảm, cảm giác mà ông chỉ còn những ảo tưởng thuộc về nó mà thôi… Về mặt hình thức, người ta càng thấy rõ việc này. Ông chỉ dùng đa số từ ngữ, hình ảnh cũ, điệu quen thuộc, ước lệ diễn đạt tâm tình”.

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ở đây nội dung đã không mới, mà câu thơ cũng không được mười lần gọt rũa như thói quen Vũ Quân - hay trái lại, dẫu có mười lần gọt rũa cũng chỉ cốt thu lượm những danh từ cho lạ, cho kêu, những hình ảnh đã thành ước lệ, những cú pháp cho êm tai, hơn là những tình cảm đặc sắc, rung động, ý tứ tân kỳ”.

Tôi trở về cái vấn đề “nội dung mới”…

Tập thơ làm xấu hổ cho Vũ hoàng Chương nhiều điều, làm đau xót cho chúng ta nhiều chỗ, nhưng theo tôi cái điều Vũ hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất, và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:

Có nghĩa gì đâu một chữ “Về”
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề
(Nửa đêm trừ tịch)

Chữ “về” tác giả tự gạch đít, cái việc “về thành” cái việc dinh tê về Hà-nội lúc ấy có đội quân chiếm đóng của Pháp đang làm hoen máu trên năm cửa ô, mà tác giả gọi là về “kinh đô của ước thề”, là “chẳng có nghĩa gì” cả, thế thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa.

Người mẹ chạy Tây không nổi, bế con về Hà-nội là để nuôi con, nhưng thi sĩ họ Vũ về là với một nội dung không mới mẻ gì cho lắm đối với cuộc đời trụy lạc của anh ngày trước.

Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thỏa nguyền…
(Nửa đêm trừ tịch)

Vũ hoàng Chương “về” thành chỉ vì biếc đón, hồng đưa! Thì Vũ hoàng Chương đi Nam, âu chỉ vì hồng đưa, biếc đón. Thực ra không phải chỉ có thay đổi địa dư. Mà so với tâm hồn anh hồi kháng chiến, so với cả tâm hồn anh trước Cách mạng, thì lần này anh thay đổi cả tâm hồn. Qua thơ anh, thấy không còn chỉ là biếc đón, hồng đưa, mà đã “ma dẫn lối, quỷ đưa đường”, bàn tay chính trị ph.... đ.... của quỉ Diệm đã bắt đầu đưa anh đến gần miệng vực…

Vũ hoàng Chương vẫn vờ làm ra người cao đạo:

Mặc cho những kẻ mài gươm sắc
Ta chỉ mài riêng ngọn bút này

không biết gì đến những việc ở miền Nam hiện nay, không biết đến thuốc độc Phú-lợi, máy chém Mỹ lưu động từ Tây-ninh cho đến Cà-mau, không biết đến những trận càn, những luật 10-59…

Anh chỉ biết có Đạo:

Đời hiểu gì chăng hề chữ Đạo…

Chỉ biết có Thơ:

Ngòi Thơ một sớm cao vòi vọi
Nhân loại chầu quanh ngát khói hương…

Chỉ biết có vợ anh:

Ngọc nhã thành Chương, Oanh ríu rít…

Chỉ biết có con anh:

Hoa đến mùa trăng đã đến tuần
Ước mơ đã hiện Vũ hoàng Tuân
Đầy trời ánh sáng hương đầy đất
Lòng kết vàng son, hội mở xuân

Chỉ biết có người yêu của anh:

Khóe thu còn biếc trăng tâm sự…
Khanh của Hoàng ơi, mộng vẫn còn!

Chỉ còn biết có khoái lạc, vật dục:

Kề vai căn vặn nỗi niềm
Má người yêu có tỏ niềm tuyết nhung
Em rằng: một đóa phù dung
Mấy tang thương vẫn ngại ngùng gió mưa…

Nghĩa là không biết chính trị gì gì cả.

Nếu thật mà như thế? Nếu thật ở giữa miền Nam nước sôi lửa bỏng ngày nay mà có những người thành tâm chỉ biết đến Thơ, thành tâm chỉ biết đến Đạo, chí thú lo cho vợ con mình, hoặc tệ nữa, không dám đấu tranh, chỉ biết vùi đầu trong nhớ thương, quên mình trong khoái lạc đi nữa, thì ta cũng thương họ, trách họ mà thôi, chứ không giận họ. Trong khi chưa đòi được tất cả mọi người cái tối đa - là đứng lên đấu tranh với bọn cướp nước và bán nước Mỹ-Diệm -, thôi thì ta tạm bằng lòng với cái tối thiểu của họ, là họ hãy lo cái thú vui riêng dù trong dù sạch đó của họ, mà đừng đi với bọn khát máu, mà đừng làm hại đến sự việc của toàn dân. Thực ra cuộc đời không đơn giản, cắt ra từng việc, chia ra từng ô như thế được. Cái nọ xọ cái kia, cái dây đã giắt con bò, Vũ hoàng Chương sa đọa về sinh hoạt không xa mấy với Vũ hoàng Chương sa đọa về chính trị.

Vũ hoàng Chương sa đọa ư? Phải chăng trong tập này, Vũ hoàng Chương đã “vươn” mình dậy, nhà thơ ủy mị bên cái giây tơ đã mắc thêm một giây đàn thép, giọng nói trữ tình đã thêm giọng anh hùng ca. Vũ hoàng Chương đã nói đến Phạm hồng Thái, Trần Hưng Đạo, đã nói đến Bắc Bình Vương…

Chúng ta sẽ không hổ với người mà một trận Đống-đa nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề sai đá chẳng sờn…

Thưa các bạn, biết làm sao được, khi nhiều việc bắt lòng tôi phải đa nghi. Lần đầu tiên, trở về Hà-nội bị chiếm bởi giặc Pháp, tôi thấy nhiều con đường Tây vẫn để là đường Nguyễn thái Học… Và một chiến dịch tàn sát những người kháng chiến của Mỹ-Diệm lại lấy tên những anh hùng dân tộc: Nguyễn Trãi, những nhà ái quốc: Phan chu Trinh…

Đối với một nhà thơ, biết yêu từ một ngọn cỏ, một con chim, yêu cái tiếng Việt mẹ đẻ này, cố nhiên là tôi tin anh Vũ hoàng Chương cũng có một lòng yêu nước chứ.

Cho nên tôi vẫn muốn tin ở lòng ngay thật của anh khi anh ca tụng cái hồn thiêng đất nước. Nhưng đi với ma thì mặc áo giấy. Và cái áo giấy của ma lâu ngày thành cái áo thật của anh cũng nên.

Trả ta sông núi là bài thơ anh viết về “nhân ngày kỷ niệm liệt sĩ”. Anh nói về hai bà Trưng, về Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Và anh nói cả đến ngày nay: Phan đình Phùng, Nguyễn thái Học… Bài thơ gần như một bản tổng kết về lịch sử đấu tranh và cách mạng của dân ta:

Ôi Việt sử là tranh đấu sử
Trước đến sau cầm cự nào ngơi
Tinh thần cách mạng sáng ngời
Bao người ngã, lại bao người đứng lên

Thế nhưng anh không nói đến những người mà anh vừa kêu gọi họ đứng dậy:

Ba kỳ hỡi hỡi người dân Việt
Mau võ trang cùng tiến bước lên…
(Nhớ về Hà-nội vàng son)

Bao người đã ngã xuống vì:
Cùng tiến bước mau! Thề một chết
Đòi hoa Hà-nội sóng Long-biên
(Nhớ về Hà-nội vàng son)

Anh không dám nói đến cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cuộc kháng chiến còn nóng hổi hơi máu, hơi người! Kháng chiến, hai chữ ấy thiêng liêng, thần thánh bao nhiêu. Ngô đình Diệm muốn bôi xóa nó đi trong lịch sử, không được, lại quay ra muốn nhờ hơi nó. Tôi hiểu ra rồi: Vũ hoàng Chương viết bài thơ này giữa lúc Ngô đình Diệm còn đang chửi bới kháng chiến. Giá mà bài thơ được viết ra lúc tổng Ngô đang lợi dụng hai danh từ kháng chiến thì chắc Vũ hoàng Chương lại không quên cái thời kỳ lịch sử lớn lao, nhờ nó mà anh đã viết được những trang trong sạch nhất trong đời cầm bút của anh.

Đối với kháng chiến anh từng ca tụng, giờ anh bội bạc, mà đối với Hà-nội anh từng nhớ mong lúc kháng chiến, thì anh lại còn tệ hại hơn, anh vu cáo nó: liễu của Hà-nội do Tây chặt đi, giờ quanh các hồ ta đang bắt đầu trồng liễu. Nhưng anh vu cáo đó là tội ác của chúng ta:

Trông vời hỏa ngục giờ đây
Hàng mi liễu đôi bờ lửa xém

Hồ Kiếm đông đến nỗi từ tên Hoàn Kiếm có người gọi đùa là Hồ Tìm Kiếm. Hồ Tây là nơi rộn rịp mấy công trường, anh vẫn nói bằng cái giọng lưỡi của địch:

Nhưng năm cửa sao mà vắng ngắt
Mà rưng rưng Hồ Kiếm, Hồ Tây…

Tôi không muốn đem thực tế của Hà-nội ta đối chọi với những lời vu cáo trong thơ anh. Thực ra, anh đã tự thú nhận cái lối nhìn Hà-nội của anh là cái lối không phải mắt thấy, tai nghe, nghe cả hai tai, thấy bằng hai mắt, cái lối nghiên cứu, điều tra tìm hiểu gì gì! Nó là cái lỗi đoán mò! Cái lối nhờ “tiềm thức ban đêm”, cái lối “linh cảm” rất là thầy bói, cái lối nằm ở trên giường chiếu của phòng ngủ, mà nhắm mắt hay lim dim mở mắt nói mò:

Tiềm thức đêm đêm đời rộng mở
Ta chờ linh cảm ý quê hương.
Không gian từng kết hình trong mộng…
Và sắc thời gian ở chiếu giường.
Sông núi xa xưa về hiện bóng
Hồn say ta vượt hết biên cương…
(Tâm sự phố phường)

Đài địch nói: Hà-nội đói khổ, loạn lạc rồi, thế là anh lại viết:

Cố quận riêng mình xót nhiễu nhương

Đài địch gào: Dân Hà-nội khởi loạn rồi, thế là anh gào:

Là máu sôi thành lệ dựng đêm nay
Là xôn xao lửa bốc dựng đôi mày…

Anh đã thành cái loa cho địch.

Nhưng thôi, nhà thơ thì vốn tin ở cảm giác của mình. Cái loa của địch ở gần, mà Hà-nội của ta thì ở xa, một bên anh nghe được, mà một bên anh chưa thấy được. Ta có nói với anh cũng là vô ích.

Tôi mời Vũ hoàng Chương trở lại cuộc sống quanh anh. Đến đây thì tôi không muốn làm phiền độc giả của tôi bằng bắt họ nghe lại những chuyện họ đã đọc nghìn lần trên báo. Và tôi chỉ mời ông Chương đọc báo. Đọc báo Sài-gòn. Đọc ngay cái tờ Cách mạng quốc gia là cái tờ hàng ngày chửi chúng tôi, và chỉ có một lý tưởng là ca tụng đế quốc Mỹ và Ngô đình Diệm…

Ông Chương nghĩ gì về những vụ nông dân bị dồn làng làm khu trù mật, bỏ quê hương đi dinh điền nơi nước độc rừng sâu? Nghĩ gì về những người kháng chiến liên tiếp bị án tử hình? Nghĩ gì về cái máy chém đang lưu động? Nghĩ gì về việc mổ gan anh Út Lép, “một con người”? Nghĩ gì về việc giáo sư Thịnh và mấy sinh viên bị bắt vì vẽ một người mẫu? Việc học sinh các trường không có tiền may đồng phục, bị cảnh sát đến đuổi học, theo dõi điều tra? Việc những nghệ sĩ sân khấu chết không chiếc quan tài? Đến những người di cư sống bằng nghề làm pháo, mà pháo bị cấm. Đến hàng nghìn người bị bắt vì đốt pháo Tết vừa qua? Việc nhà thơ Dương tử Giang bị bắt? Việc cấm tờ báo Liên Á vừa rồi? Việc người ta giết người Việt-nam ở Biên-hòa để báo thù cho người Mỹ…

Tôi nhớ không có trật tự gì về cái xứ hỗn loạn “thế giới tự do” mà anh ca tụng. Nhưng chỉ cần anh đọc báo Sài-gòn. Đúng hơn, chỉ cần anh đọc xong và suy nghĩ. Đối chiếu với thơ anh mà suy nghĩ. Tôi chắc anh sẽ hối hận vì những câu ca tụng một cuộc “trưng cầu dân ý” mà ý dân được trưng bằng súng lục, nhà tù:

Lá phiếu trưng cầu một hiển linh
Xé tan bạo lực dưới muôn hình
Từ đây nước Việt dân làm chủ…

Anh sẽ ghê tởm những câu “làm đĩ” cho cái lưỡi và ngòi bút của mình:

Các bạn! Nào ta hãy đứng lên
Trái tim dân tộc đã xây nền
Tự do đã hiển linh thần tượng
Cánh vỗ hào quang tỏa bốn bên…

Anh sẽ xóa trong đời thơ anh những câu tương tự:

Gió nổi vần mây giục đấu tranh
Tâm tư lồng lộng kết nên thành
Thành ngăn sóng Đỏ, mây sừng sững
Nước Tổ về ngôi đẹp sử xanh…

Tôi biết có một số người không hiểu rõ miền Bắc. Có một số người không hiểu rõ chủ nghĩa c.... s... Một bà má có con đi kháng chiến ở bưng biền, ra thăm con, hỏi nhỏ con: Này con, con lén chỉ cho mẹ xem vài người c.... s.. xem sao.

Cô con bảo: Con đây. Con vào Đảng ba năm rồi.

Bà mẹ không tin: Con mình hiền lành vậy, “tốt” vậy sao mà c.... s.. được.

Ta chỉ giận bọn giặc đầu độc, chớ ta thương, hết sức thương bà má hiểu nhầm.

Vũ hoàng Chương, dù anh là trí thức, là thi sĩ, là người ngạo mạn về giòng thơ của mình:

Từ hôm nay nhỉ, suối hào quang
Nối mãi giòng thơ họ Vũ hoàng…

Nhưng anh thật thua nhiều, không thể nào so sánh với bà má ấy được. Bà má ấy không biết thì bà má hỏi. Còn anh không biết thì anh lại chửi càn.

Gần đây, một hôm đi chơi bên các vườn hoa đẹp ở Hồ Kiếm, Hồ Tây, Hồ Bảy Mẫu, tôi bỗng sực nhớ một cái ý của thi sĩ Henri Heine cách đây trên 100 năm. Ông ta cũng là người không hiểu c.... s... Ông nói đại khái:

“Sau này chủ nghĩa c.... s.. lên, xé thơ tôi để gói lạp xường, nhổ hoa hồng để trồng bắp cải…”

Và ông tiếp:

“Ví dù như thế đi nữa, thì tôi vẫn tán thành chủ nghĩa c.... s.., bởi vì không có chủ nghĩa c.... s.., thì không thể đánh đổ các bọn vua quan áp bức hiện nay…”

Câu văn Heine hay và mãnh liệt hơn nhiều. Tôi ít thuộc sách nên nhớ tạm là như vậy…

Tôi mỉm cười vì chúng ta không những trồng thêm nhiều bắp cải, mà với Tết trồng cây năm nay, chúng ta trồng rất nhiều hoa hồng. Lạp xường thì Mậu dịch bán rẻ, gói bằng giấy bóng gói lạp xường, và thơ Henri Heine thì lại được ta kỷ niệm, in ra bằng giấy đẹp.

Anh Vũ hoàng Chương, nếu anh chê câu chuyện bà mẹ trên kia là dân giã, thì tôi biếu anh mẩu chuyện này.

Tôi biết anh làm thơ trong một bầu nước đục.

Tôi biết anh làm thơ vì những lý do không phải lúc nào cũng vì Đạo, vì Thơ:

Báo chuông mấy độ vẽ bùa
Chắt chiu cũng đủ tiền mua trăng rằm…

Đồng tiền quả là đủ đem mua trăng, có thanh cao đấy, nhưng coi chừng, bàn tay đưa tiền cho anh là tay vấy máu. Văn chương anh chỉ xem như một thứ vẽ bùa lấy lệ cho có tiền, nhưng bùa của anh vẽ ra, có kẻ đem dùng để trấn áp những người yếu bóng vía, dễ lòng tin.

Cho nên, tôi chỉ xin nhắc anh cẩn thận. Thơ anh đã xuống lắm rồi. Và tâm hồn anh bầy quỉ đã dìm xuống những nơi anh không muốn. Anh không còn cái trong sạch hào hoa thời kháng chiến. Anh cũng không còn cái lỗi lầm vô tội và cũng hào hoa xưa kia. Anh đã đi vào con đường tâm lý chiến tranh, tác động tinh thần…! Anh đạp lên cái hồn thơ anh mà chúng tôi rất quí.

Những sách tốt, sách hay của chúng tôi làm tôi tin con đường tôi đi là đúng. Nhưng những sách xấu, dở của các anh càng làm cho tôi tin con đường chúng tôi đi là đúng hơn. Chưa bao giờ tôi biết ơn nhân dân tôi, Đảng tôi, bè bạn, đồng chí tôi bằng những lúc này. Cũng chính lúc này, tôi thương xót các anh hơn.

Chúng ta cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cũng là những người ra từ một phong trào thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày nay hầu hết những nhà thơ cũ thờ ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu trọng Lư, Nguyễn xuân Sanh, Huyền Kiêu. Ít nhiều chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.

Còn anh? Và Đinh Hùng, bạn anh nữa, các anh đã làm gì? Đọc tập thơ Hoa Đăng, tôi rất giận anh, mà lại thương anh! Các anh ca tụng một bọn bán nước, bán máu người, đã làm tâm hồn và thơ ca anh xuống dốc. Các anh chửi một chính Đảng, một nền tư tưởng mà rồi đây cũng sẽ hết sức cứu lấy các anh.

Hãy làm lại cuộc đời mình đi Vũ hoàng Chương. Nghĩa là nếu không có thiện chí như Henri Heine thì cũng cần dè dặt như bà má.

(Nghiên cứu văn học, 4/1960, tr. 34-41)

Thanked by 1 Member:

#219 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 19/06/2021 - 20:19

Chuyện ít biết về Thái Phỉ - Tổng biên tập báo thiếu nhi đầu tiên của VN

19/06/2021

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nhà nghiên cứu Lê Minh Quốc đánh giá: Trong lịch sử báo chí Việt Nam, ông Thái Phỉ đã đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo thiếu nhi đầu tiên của Việt Nam.
Báo Thanh Niên số ra ngày 13.3.2021 có bài: “Viết báo ‘Cậu Ấm’ cho... trẻ em trai, nhuận bút của Nguyễn Công Hoan là chiếc bút máy”. Nội dung nhắc đến tờ Cậu Ấm – là một tờ báo dành cho thiếu niên, nhi đồng nửa cuối những năm 1930. Tuy nhiên thông tin để lại hiện nay về báo rất ít ỏi. Song đến nay, cuộc đời của nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong, người đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam, vẫn còn ít người biết tới.
Người viết bài này từ nhiều năm trước tình cờ được gặp anh Song Văn - cháu ngoại của nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong. Anh đã chia sẻ cho tôi một số tư liệu về ông ngoại của mình, cùng với đó là bản photocopy cuốn Một nền

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Việt Nam mới do Nhà xuất bản Đời Mới phát hành (1941).
Giáo dục thanh thiếu niên

Anh Song Văn cho biết nhà báo Thái Phỉ là một trong nhiều nhà trí thức có tên tuổi tại đất Hà thành thời kỳ trước năm 1945. Lấy bút danh Thái Phỉ, ông muốn tỏ ý, bản thân luôn thấy nhục nhã trước cảnh nước mất nhà tan. Khổng Tử giảng trong sách Luận Ngữ rằng: Phỉ, Phong là rau đắng của kẻ hàn sĩ. Bá Di, Thúc Tề ngày xưa vì nỗi nhục mất nước mà bỏ lên núi, chỉ ăn rau này để sống. Còn tên thật của ông là Nguyễn Đức Phong, sinh ngày 3.12.1903 ở Yên Dũng (Bắc Giang), nguyên quán tại Long Mỹ, phủ Thái Ninh – nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Ban đầu Nguyễn Đức Phong là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Năm 1923 ông là giáo viên trường Canh Mỹ, sau vài năm làm hiệu trưởng trường này. Năm 1928, được điều đi làm hiệu trưởng trường Móng Cái thay cho ông Hoàng Đạo Thúy. Không rõ vì lý do gì, ông rời giáo giới để sang báo chí, “đóng vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam” mang tên Cậu Ấm.
Tờ Cậu Ấm phát hành, theo nhà nghiên cứu Lê Minh Quốc,đến số 13 được đổi tên thành Cậu Ấm Cô Chiêu.
Anh Song Văn cho biết cụ thể: Cậu Ấm Cô Chiêu là tờ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

thanh niên nhi đồng Việt Nam phát hành số 1 vào ngày 21.2.1935, in theo khổ 19x27 cm, dày 20 trang, giá 5 xu, ra ngày thứ tư hằng tuần. Tòa soạn đặt ở số 82 Rue du Coton (nay là phố Hàng Bông, Hà Nội).
Tờ báo có nhiều nhà văn, nhà báo, họa sĩ, nghệ sĩ cộng tác thân thiết và nhiệt tình. Theo anh Song Văn, nhà văn Nguyễn Công Hoan được đông đảo độc giả đón chờ với các tác phẩm: Tấm lòng vàng, Đảng Rổ Bẫy… Nhà văn Nguyễn Công Hoan cùng Tổng biên tập Nguyễn Đức Phong mở trang luyện Văn, phân tích tiếng Việt được các em nhỏ nhiệt liệt hưởng ứng. Tác giả Dư Vinh cuốn hút sự say mê của mọi người bằng các sáng tác phiêu lưu mạo hiểm: Ca La Phan phiêu lưu ký, Đồng trinh Gia Long… Họa sĩ NGYM (tên thật là Trần Quang Trân), họa sĩ Mạnh Quỳnh vẽ tranh minh họa và tranh cười rất hóm hỉnh.
Thời gian này, tổ chức Hướng đạo sinh (mà ông trùm Hướng đạo toàn Đông Dương là nhà giáo Hoàng Đạo Thúy) cũng kín đáo giáo dục tinh thần yêu nước thương nòi cho thế hệ thanh thiếu niên nhi đồng qua các chuyên mục: “Câu hát vặt”, “Ngụ ngôn Nam Hương”, “Truyện kể lịch sử”…
Nhận thấy tờ báo có nội dung tuyên truyền sâu rộng tinh thần yêu nước thương nòi trong các thế hệ thiếu niên nhi đồng, chính quyền thực dân Pháp đã buộc tờ báo phải đình bản ở số 129.

Báo đóng cửa, ông chủ bút trở lại con đường đi dạy học ở trường tư để mưu sinh. Năm 1941, ông viết cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới. Cuốn sách chứa đầy những tâm sự với các thế hệ đang bị ru ngủ bởi các thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp, thế hệ không có lý tưởng, không có mục đích sống, cần có một sự đổi mới triệt để nhằm thức tỉnh họ. Nhà báo Diệu Anh - Đinh Gia Trinh một cây bút điểm sách trụ cột trên tờ Thanh Nghị đã đánh giá: Cuốn sách gây ra một tiếng vang trong xã hội đương thời đi kèm với một phản ứng khó chịu từ phía nhà cầm quyền.
76 năm bặt vô âm tín

Năm 1942, ông Nguyễn Đức Phong bị bắt sau một buổi diễn thuyết chống Pháp. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Ra tù, ông về nhà ở Láng (Thôn Mọc, Quan Nhân, tỉnh Hà Đông, nay là quận Thanh Xuân, Hà Nội), hai chân còn hằn dấu còng bị sâu quảng, đi lại rất khó khăn. Gia đình phải dùng nhiều biện pháp chữa trị mới tạm lành. Vừa ra tù, ông đã thành lập “Ủy ban giải phóng chính trị phạm” để yêu cầu chính quyền thả những tù chính trị yêu nước.

Báo Đông Pháp, 3.1945 có đoạn viết: “Ngày 19.3, ông Nguyễn Đức Phong, ông Võ Khắc Thiệu cùng một số chính trị phạm thành lập “Ủy ban giải phóng chính trị phạm”, ủy ban được lập ra là có mục đích giải phóng tất cả các chính trị phạm ra khỏi nhà tù của thực dân”. Trụ sở của ủy ban đặt tại 149 phố Hàng Long (nay là đường Lê Duẩn – Hà Nội).
Vẫn trên báo Đông Pháp cho biết: “Ngày 2.4, Ủy ban giải phóng chính trị phạm đã giải phóng 206 chính trị phạm khỏi đề lao Hà Nội… sau đó tiếp tục giải phóng nốt số tù chính trị còn lại. Tháng 6.1945, ủy ban tuyên bố đã hoàn thành mục đích và thông báo tự giải tán…” .
Giữa tháng 7.1945, ông Phong từ biệt gia đình nói là đi phát chẩn. “Ông không cho người nhà biết ông đi phát chẩn ở những đâu, chỉ biết ông đã sử dụng giấy tờ giả” – cháu ngoại nhà báo Thái Phỉ chia sẻ. Một thời gian sau, trên báo chí xuất hiện thông tin “Nhà báo Thái Phỉ mất tích”.
Ba tháng sau, ông nhắn tin qua thư tay về cho vợ: “Nhà đừng lo, tôi vẫn bình yên”. Trên phong bì thấy có địa chỉ nơi gửi: Hoa Lư – Ninh Bình… Đó là

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

cuối cùng gia đình có được về nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong - người giữ vai trò tiên phong khi thực hiện tờ báo nhi đồng đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay đã 76 năm bặt vô âm tín. Người thân vẫn đi tìm tung tích ông.
Kiều Mai Sơn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Báo 'Cậu ấm Cô chiêu'
ẢNH: NGUYỄN GIANG



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Nhà báo Thái Phỉ - Nguyễn Đức Phong (1903 – 1945?)

ẢNH: TƯ LIỆU SONG VĂN



Thanked by 1 Member:

#220 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 20/06/2021 - 12:08

.....Phố núi cao phố núi đầy sương , phố núi cây xanh trời thấp thật buồn .... PLEIKU
đó là một địa danh buồn đến một lần trong đời và chưa bao giờ quay trở lại ...
BỐ TÔI
Mùa hè năm đó 1969 bố tôi đổi ra mặt trận sau hơn 10 năm giảng huấn cho Sinh Viên trường Võ Bị Quốc Gia Dalat . Một ngày tháng 5 năm đó trên chuyến bay của Air Việt Nam từ Dalat về Nha Trang đưa mẹ và chị em tôi về nghĩ hè ở Tuy Hoà , Bố đón sẵn cùng hai chiếc xe jeep và thêm ba chú lính đi thẳng về Tuy Hoà , bộ chỉ huy của trung đoàn 47 Sư đoàn 22 bộ binh đóng tại đây . Nhà đã chuẩn bị sẵn nằm trên con đường Duy Tân mang số 20 mùa hè bắt đầu cho chị em tôi ....
Năm tháng đó sau này tôi mới biết chiến sự thật ác liệt và rồi kh hơn một tháng sau khi mẹ và chị em tôi ra trong một lần đi thị sát mặt trận cùng với ba vị cố vấn Mỹ tại trận địa Dakto Ben Het và bị trúng pháo kích của cộng quân , một vị cố vấn Mỹ chết tại chỗ hai người còn lại và Bố tôi bị thương nặng , 10 phút sau hai chiếc trực thẳng trở lại để tải thương một chiếc bay thẳng ra hạm đội và một chiếc đưa bố tôi về Quân y viện Pleiku theo bố là một chú lính mà bố rất thương tên May chú trèo lên máy bay nhưng bị đẩy xuống bằng một ít câu tiếng anh chú nói mình phải theo vị chỉ huy đang bị thương nặng mới được cho đi
Ở Tuy Hoà những ngày hè thật vui với chị em tôi ăn , chơi , ngũ nghĩ với bao nhiêu là trò của con nít , nhà gần biển buổi sáng có một chú tên Cương chở mẹ tôi đi chợ chở chị em tôi ra biển chở đi vòng vòng trên chiếc xe jeep , ở nhà thì có chú tên Quẹt suốt ngày dọn dẹp xách nước ở cái giếng ngay sau nhà cho chị em tôi tắm phá .... ngày đó theo bố tôi ở hậu cứ có đến năm chú tà lọt gọi là lính hầu ( khi ấy tôi còn nhỏ nghe vậy và cũng nhớ vậy mà thôi ) . Rồi một buổi sáng như thường lệ có một bác Đại uý ở trung đoàn đến và báo tin cho mẹ tôi biết bố bị thương nhưng họ dấu mẹ tôi sau khi Bố đã qua cơn nguy kịch và tỉnh lại tức là một tuần sau mẹ và chị em tôi mới biết cũng ngay chiều ấy bộ chỉ huy trung đoàn 47 bb sắp xếp một chiếc trực thăng đưa mẹ lên với bố , tin báo về Dalat cho Ông bà ngoại cả đại gia đình thật sự hoảng hốt và cho ngay bà quản gia ra với chị em tôi . Khi mẹ lên đến Quân y viện Pleiku thì bố đã được chú May đưa ra đón mẹ , bố bị thuong rất nặng cắt bỏ một quả thận và ba đoạn ruột các bác sỹ rất thương bố họ tận tình cứu chữa để giữ mạng sống cho bố , ở đuọc 10 ngày mẹ tôi lại về Tuy Hoà cũng trên chiếc trực thăng mà trung đoàn dành riêng để mẹ có thể đi lên đi về ... Sau khi đã khoẻ lại và tỉnh hẳn Bố tôi nói với mẹ khi mùa hè hết và chị em tôi trở lại Dalat học cũng là lúc bố sẽ lên đường sang Mỹ tu nghiệp dưới sự đỡ đầu của một vị cố vấn cao cấp của Mỹ , Bố tôi rất yêu trường Võ Bị Dalat nơi mà Bố đã có những năm tháng cùng với bao lớp Sinh viên học rồi ra trường , Bố yêu những chàng trai được gọi là văn võ song toàn và Bố truyền tình yêu ấy qua chị em tôi , nơi mà bố có nhiều công trạng và mộng của Bố thì rất lớn ngày quay trở trường Bố sẽ nắm giữ chức tham mưu trưởng đó là mộng mà Bố tôi ôm ấp ... Đầu tháng 7 năm ấy chiến sự ngày càng ác liệt bố vẫn chưa được ra viện và mẹ vẫn lên với bố rồi về với chị em tôi , lần sau cùng tôi là đứa được theo mẹ lên Pleiku thăm bố chiếc trực thăng cất cánh ở trung đoàn bay lên Pleiku cùng đi theo vẫn là bác Đại uý Ích người từ lúc đầu đến báo tin , lần đầu đi trực thăng lạnh ơi là lạnh cửa mở hai bên là hai người lính Mỹ với hai khẩu súng gì mà tôi kh biết lên tới Pleiku sương mù trực thăng kh đáp xuống được sau khi bay vài vòng phải trở lại Tuy Hoà và ngày mai sẽ lên lại .... Vậy là tôi kh lên thăm được Bố nhưng có lẽ linh tính khiến mẹ quyết tâm xin các bác ở trung đoàn bằng mọi cách mẹ phải lên Pleiku trong ngày đó và cuối cùng mẹ đi bằng xe Jeep lên dù rằng đường đi rất nguy hiểm.
Một tuần sau cùng bố trở mệt lại và hơi sốt sau khi hội chẩn các bác sỹ quyết định chuyển bố về Quân Y Viện Cộng Hoà Saigon vào sáng mai. Buổi sáng hôm ấy ngày 17 /7 bố sốt nặng và có lẽ biết mình sẽ đi xa Bố tôi đã khóc (cũng như tôi đang rớt nước mắt khi viết lại) bên cạnh Bố lúc này chỉ có mẹ và em út được 13 tháng tuổi thêm chú lính hầu cùng các y bác sỹ chuẩn bị đưa Bố về Saigon, 10g sáng Bố nắm tay mẹ và khóc lần cuối 6 đứa con thơ kh có bên cạnh những giọt nước mắt thi nhau lăn trên má Bố, những giọt nước mắt đông lại khi Bố nhắm mắt mà mẹ tôi kh cho lau. Bố ra đi thật rồi.
Trưa hôm ấy bác Đại uý Ích lại đến và giúp chị em tôi thu xếp để một lát nữa xe lại đón đưa chị em tôi lên Pleiku . Vào tới bộ tư lệnh trung đoàn trong lúc chờ trực thăng tôi nghe kh biết bao nhiêu tiếng gào khóc của những người cha người mẹ có con tử trận mà chưa lấy được xác về
Phố núi cao phố núi đầy sương phố xá kh xa trời thấp thật buồn đón chị em tôi một màu xám xịt và mưa giăng , 2g chiều từ phi trường về thẳng Quân y Viện nơi đó Bố nằm im lìm chờ các con lần cuối chiếc hòm kẽm hai lớp rồi sẽ được phủ lá Quốc Kỳ và chị em tôi sẽ kh bao giờ còn nhìn thấy Bố nữa
Sáng hôm sau trời vẫn mưa giăng và mây thật thấp trên chiếc máy bay Caribou rộng lớn có chiếc hòm kẽm cài hoa có người thiếu phụ trẻ và bảy đứa con thơ cùng những vầng tang trắng đưa Bố về nơi Bố vẫn muốn sẽ trở về . Dalat một buổi sáng cũng mưa bay cả đại gia đình bên Ngoại chờ đón Bố ở phi trường Cam Ly khi cánh cửa phía sau của máy bay được nâng lên tôi nhìn thấy hai hàng Sinh viên Trường Võ Bị đứng ngay ngay ngắn tay đưa lên trán chào Bố tôi thật trang nghiêm và các vị sỹ quan của trường cũng dàn chào đón Bố tôi , Vâng họ cũng tiễn đưa Bố lần sau cùng khi ấy tôi được 8 tuổi
Thời niên thiếu của tôi sau khi Bố mất được bao trùm bởi tình thương yêu của bên ngoại của các anh chị Cousins Cousines và vật chất thật đầy đủ của bên nội nên ngày đó ở tuổi đó chị em tôi kh cảm nhận được sự mất mát lớn lao biết dường nào vẫn vô tư ăn học vui chơi cùng bạn bè mà kh phải lo âu gì ..... Tưởng là như thế nhưng thật ra kh phải khi lớn hon một chút biết hơn một chút chị em tôi mới nhận ra nỗi đau đo đau đến cỡ nào , tất cả đều dấu trong tim ít khi dám nhắc lại chỉ muốn cất dấu cho riêng mình hinhf ảnh Bố cũng như niềm tự hào về Bố là mãi mãi ❤️❤️❤️
Dakto Ben Het đó là địa danh nào nằm ở đâu nó ra sao có gì ở đó chắc chắn đó sẽ là một day dứt kh lời theo mãi chị em tôi.
Anhthu Daot

Thanked by 1 Member:

#221 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 20/06/2021 - 15:54

Mấy ngày nay đọc bài các anh chị chia sẻ về người bố của mình nhân ngày Father's Day . SG đang sôi sùng sục vì covid . Lo lắng đủ thứ từ ăn uống tới việc phòng vệ và lo cho con cái vì công việc ngày ngày vẫn phải ra đường . Nhưng nhờ những bài viết đó , tạm quên đi 1 lúc , để nhớ về cha mẹ và những năm tháng thanh xuân của cuộc đời .
Khi nhớ về bố , có 1 người chúng tôi luôn nhắc và không hiểu bây giờ anh ấy thế nào : đó là người tài xế của bố .

Ngày chúng tôi dọn về căn nhà ở ngoại ô SG để tiện cho việc di chuyển của bố tới đơn vị . Anh H được cử làm tài xế và chúng tôi biết anh từ đó .
Thoạt đầu nhìn anh hơi sợ , vì anh có cái vẻ hơi nghêng ngang hơi lãng tử . Anh Hai nói : đừng sợ ! Dầu gì cũng là cấp dưới của bố , mà trong quân đội thì không phải muốn sống sao cũng được !
Dần dần chúng tôi cũng quen . Ngoài đôi mắt hơi lạnh dưới cặp lông mày rậm , thì khi cười nói anh lại rất thân thiện và nhẹ nhàng . Anh săng sái lo cho chúng tôi như người anh lớn và mặc nhiên chúng tôi cũng rất yêu quý anh .
Thời gian đầu mới về xóm . Chúng tôi luôn nhận được những con mắt nghi ngại dò xét của hàng xóm . Vì sự khác biệt của bố oai phong trong quân phục , mẹ điệu đà với mái tóc lúc nào cũng búi cao đài các . Nhất là anh Hai , khi đó vừa đậu tú tài 2 và lên đại học , nên được bố thưởng cho chiếc xe Puch đỏ chói của hãng xe Đặng Đình Đáng . Thời đó nghe nói không phải dễ gì 1 thanh niên lại có xe gắn máy .
Một buổi chiều khi anh H vừa đưa bố từ đơn vị về . Thấy anh Hai chạy xe vội vào nhà hớt hải :
- Anh H , em vừa bị mấy đứa đầu ngõ chặn đường nói em làm le , tụi nó ghét !
Anh H bỏ vội cái mũ xuống bàn . Lôi tay anh Hai :
- Ra chỉ anh đứa nào ?
Nghe nói khi hai anh ra , nhóm thanh niên vẫn còn đang tụ tập đàn hát . Thấy anh H họ hơi dè chừng . Sau đó họ phân bua :
- Tụi em thấy nó muốn làm quen thôi , đâu có dám làm gì ? Em biết nhà nó , biết bố nó mà !
May mắn là sau đó họ lại trở thành bạn của nhau .

Bố cũng rất nghiêm khắc . Nên khi anh H đề nghị nếu anh có mặt lúc chúng tôi đến trường thì anh sẽ đưa đi . Bố nói xe công vụ không được làm vậy . Trường chỉ cách nhà có 1km , tụi nhỏ hàng xóm toàn đi bộ . Nên tụi nhóc cứ cho đi bộ !
Mà thật tình chúng tôi cũng rất ngại mỗi khi trưa nắng hay trời mưa mà anh tới đưa đón . Nhiều khi nói anh đậu xa cổng trường chút . Sợ bạn bè nhìn thấy , dị lắm !
Có lần buổi chiều trời mưa . Chị em chúng tôi có 3 đứa : 1 đứa học đệ thất và 2 đứa tiểu học . Trường thời đó là dạy cả trung - tiểu học nên chúng tôi học chung . Cả 3 đang xớ rớ dưới hiên nhìn mưa đổ trắng xoá . Con nhỏ bạn chỉ tay :
- Xe nhà mày kìa !
Tôi nhìn về phía cuối hàng hiên . Anh đang giương dù ra hiệu . Rồi chạy xe tới chỗ chúng tôi đón .

Nhũng ngày khi anh vừa lĩnh lương còn vui dữ nữa . Anh nói hôm nay anh khao. , muốn ăn gì thì nói .
Khi bố biết chuyện , bố dặn không được làm vậy . Anh còn khó khăn lắm !
Đến ngày lãnh lương anh lại rủ rê . Chúng tôi nói bố không cho phép . Anh nheo mắt cười :
- Tiền chẵn thì không được , nhưng cứ ăn hết chỗ tiền cắc này dùm anh !
Con nít mà , quên ngay và lại đi ăn đủ thứ .
Tháng sau bố nhắc :
- Tháng này đơn vị bố không trả lương bằng tiền cắc , nên đừng chờ anh H chở đi ăn đấy !
Nhưng anh vẫn rủ . Chúng tôi thật thà nên nói lại nguyên văn lời bố . Anh cười ha hả :
- Nhưng sáng nay anh đi mua đồ ăn sáng cho mẹ anh , họ có thối lại tiền cắc .
Lời nói dối từ những người đàn ông nhưng đám con nít tin sái cổ .

Một buổi tối anh đến chờ để đưa bố lên đơn vị trực .
Mấy anh em đang ngồi tán dóc ngoài sân .
Chợt chị TL là bồ của anh Hai tới . Anh Hai vào phòng khách nói chuyện . Chúng tôi hơi tò mò vì rất ít khi chị ấy tới lại là buổi tối hơi muộn . Không khí trong phòng khách rất căng thẳng . Không nghe rõ chuyện gì . Nhưng ít thấy anh Hai nói . Chỉ thỉnh thoảng lại thấy chị TL chậm khăn lau nước mắt .
Anh H chặc lưỡi :
- Anh Hai mấy đứa chắc lại muốn quất ngựa ..,
Còn bé nên chưa hiểu gì . Tôi tròn mắt :
- Quất bằng gì ? Lúc nào ? Em có thấy gì đâu ?
Anh quay qua gõ đầu :
- Con nít biết gì , chờ lớn rồi hiểu . Không quất bằng roi mây như khi mấy đứa bị ăn đòn . Nhưng đau lắm mà lâu hết lắm !
Sau đó vài ngày , khi buổi trưa chỉ có 2 anh em . Anh Hai kể cho nghe như trút nỗi bận tâm chứ biết em còn bé hiểu gì :
- Anh không quen chị TL nữa .
Ít lâu sau anh H nói với chúng tôi :
- Nói cho mấy đứa con gái tụi bây rút kinh nghiệm mà giữ bồ nhe . Anh Hai tụi bay ngày trước cứ về khoe với anh : TL tuyệt vời lắm , gốc Bắc Ninh lại là nữ sinh Trưng Vương ... Nhưng mấy đứa biết vì sao bây giờ không chơi nữa không ? Anh mấy đứa nói mỗi lần tới nhà đón đi chơi là phải đợi trang điềm sửa soạn rất lâu dù đã hẹn giờ trước . Mà chưa hết nghe , xuống tới dưới nhà rồi còn phải đi kiếm đôi giày . Chân trái 1 nơi chân phải 1 nẻo . Riết rồi anh tụi bay nản ! Nên tụi bay là con gái , phải nghe anh Hai dạy bảo mai mốt khỏi bị ế .
Chúng tôi ngẩn ngơ :
- Nhưng như thế thì có nhất thiết phải tới gặp anh Hai khóc lóc vậy không ?
Anh H nhìn chúng tôi ngạc nhên :
- Vậy là tụi bay có anh tốt mà không biết . Đúng là bụt nhà không thiêng ! Anh mà là cô ấy anh cũng phải níu tay thử 1 lần cầu may . Mất anh Hai tụi bay là buồn dữ lắm ! Anh là đàn ông mà nhìn nó anh còn mơ . Tụi bay con nít chả hiểu gì !!!

Một lần anh tới đón bố đi làm . Nhưng hôm đó bố mệt nên bố nói cứ ở nhà ngồi chờ , anh Hai chở đi bs rồi về lên đơn vị sau . Anh nói với chúng tôi :
- Anh chạy xe ra đây chút .
Khi bố về rồi mà anh chưa về . Thời đó chưa có điện thoại di động như bây giờ nên cả nhà chỉ biết ngồi chờ . Lát sau nhìn thấy chiếc xe Jeep của bố ngừng ở cổng . Trên xe ngoài anh còn 2 ông quân cảnh , mặt nghiêm trang trong bộ quân phục hồ cứng thẳng tưng . Bố tôi ra nói chuyện và giải quyết . Nghe bố nói vì anh lái xe công vụ trong giờ làm việc , lại chở cô gái nào đó ( lúc sau vì sợ anh xấu hổ nên chúng tôi không hỏi việc này ) Nên bị quân cảnh hỏi thăm , bố phải đứng ra xác nhận và bảo lãnh .

Thời gian được vài năm thì bố chuyển công tác ra vùng Tây Nguyên . Anh xin theo nhưng đơn vị không cho . Bố nói để bố ra nhận nhiệm vụ 1 thời gian xem thế nào rồi bố tính . Nhưng sau đó nghe nói anh không phục sếp mới nên anh đã bị đổi ra đơn vị khác . Chiến cuộc ngày 1 leo thang . Bố bận rộn hơn nên chúng tôi mất liên lạc với anh từ đó .

Sau 1975 anh có ghé thăm . Anh cứ buồn buồn nói với mẹ :
- Em đến thăm cô với các em . Em đi xa chuyến này rồi không biết có được gặp lại không ? Nhưng em vẫn hy vọng ....
Bây giờ đã hơn 45 năm . Không biết anh phiêu bạt nơi nào . Nếu còn sống ở đâu đó chắc cũng phải trên 80 tuổi rồi . Hy vọng dù thế nào anh cũng đã có 1 cuộc sống tốt đẹp như con người anh . Và nơi này , thỉnh thoảng khi nhớ về bố , chúng em cũng luôn nhớ về anh . Lúc nào anh cũng ở hình dáng ngang tàng nhưng nồng ấm tình anh em .
Chúc anh luôn an yên .

Hhong Lenguyen

Thanked by 1 Member:

#222 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 21/06/2021 - 20:24

TƯ LIỆU VỀ ĐẶNG THÁI SƠN - NGƯỜI CÙNG KHÓA ĐI LIÊN XÔ

Tôi có may mắn cùng đi chuyến tàu sang Liên Xô để học đại học cũng với nghệ sỹ piano thiên tài Đặng Thái Sơn. Chúng tôi đều nhớ, khi đến tp tập kết Irkutsk, thấy hồ sơ anh đi học Học viện âm nhạc Tchaikovsky, bà giáo và đoàn đại diện Bộ Đại học Liên Xô không tin con người nhỏ thó, gầy còm đó lại có khả năng âm nhạc để vào học viện khắt khe này. Họ đã bắt anh đàn thử để thẩm định năng lực trước khi cho phép anh về Học viện.
Vậy mà chỉ 3 năm sau, anh đã mang lại danh giá không những cho Học viện Tchaikovsy mà còn cho cả đất nước Việt Nam bằng giải thưởng cao nhất cuộc thi Chopin tại Ba Lan.

Cuộc đời Đặng Thái Sơn rất vinh quang nhưng cũng đầy dấu hỏi.

Bài viết sau đây tôi lấy của facebooker Nguyễn Phi Hùng và Sơn Nguyen. Tôi cũng có chỉnh lý một ít văn phong và thông tin mà tôi biết cho chính xác.

ĐẶNG THÁI SƠN VÀ MẶT SAU TẤM HUY CHƯƠNG CHOPIN
Cũng giống như Ngô Bảo Châu sau này làm rạng danh người Việt về toán học, người Việt như Đặng Thái Sơn được chăm bón, vun trồng ở tận đẩu tận đâu rồi thành công lớn, về “báo công” cho nhà nước, rồi được xã hội tung hê, đưa tất cả lên đỉnh, tưởng chừng như thế gian này chỉ có người Việt là giỏi; người Việt sẽ làm cho TG thăng hoa…
Và rồi nền âm nhạc, toán học ở VN vẫn vậy; vẫn những nốt lặng trầm hùng dai dẳng, vẫn những dấu trừ đều tăm tắp lan tỏa về chân trời…
Và đây, xin mời các bạn tham khảo trường hợp nhân tài Đặng Thái Sơn – nhân tài âm nhạc, Giải thưởng Chopin 1980, Nghệ sỹ nhân dân do Nhà nước Việt Nam phong tặng…

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1956 tại miền Bắc Việt Nam; nhiều nhà văn, nghệ sĩ đã đứng lên tham gia một phong trào văn học có tên là Trăm hoa đua nở, là chữ dịch từ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng”, thời kỳ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của Trung Quốc.
Ngày đó, rất đông văn nghệ sĩ đã tham gia phong trào này, sau gọi là “Nhân văn giai phẩm” . Nổi tiếng nhất có các ông Phan Khôi - Chủ nhiệm tạp chí Nhân Văn, Trần Duy - Thư ký tòa soạn, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Phùng Quán, Văn Cao, Nguyễn Tuân, bà Thụy An... Có nhiều nhà trí thức, không phải văn nghệ sĩ, như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu cũng tham gia phong trào này và mọi người biết đến nó dưới cái tên là nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có một nhà thơ tên là Đặng Đình Hưng. Ông chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời, hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm 6 tập thơ, với những vần thơ khó hiểu, rất khác người. Ông còn đuợc biết đến như một kiến trúc sư, nhạc sĩ, hoạ sĩ.
Năm 1957 Đặng Đình Hưng lấy bà Thái Thị Liên, một nhạc sĩ dương cầm (piano) nổi tiếng đương thời. Bà Thái Thị Liên đã có hai đời chồng trước - khi bà ở hải ngoại (Pháp, Tiệp Khắc) và đã có ba người con. Năm 1958, vợ chồng họ Đặng và họ Thái sinh được một cậu con trai, họ đặt tên là Đặng Thái Sơn.
Niềm vui vầy con cái chẳng được bao lâu thì tai họa ập đến. Chính quyền Việt Nam đã ra tay dẹp phong trào Trăm Hoa Đua Nở và nhóm Nhân Văn Giai Phẩm với vụ án Nhân văn giai phẩm nổi tiếng (nhưng ít thông tin và ngày nay ít người biết). Nhiều văn nghệ sĩ và cả các nhân sỹ, nhà hoạt động cách mạng bị đưa đi cải tạo ở các nông trường. Nặng hơn thì bị khép án, tù tội. Có người sau khi xử tù còn bị giam lỏng ở các vùng quê hẻo lánh đến già (Nguyễn Hữu Đang). Bị xử nặng nhất là bà Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (người tay hòm chìa khóa cho Chính phủ từ lúc mới thành lập năm 1945).
Về người quyết định “đánh” Nhân Văn Giai Phẩm, chính thức được nêu danh thì là Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và Tố Hĩu. Nhưng theo ông Nguyễn Hữu Đang, người rất thân cận và gần gũi với H.C.M, thì cho rằng nếu không có sự đồng ý hay cho phép của H.C.M thì Nhân văn Giai Phẩm không thể bị dẹp ở quy mô như vậy.
Trở lại với gia đình đã sinh ra Đặng thái Sơn, với một ông chồng là một nhân vật bị quy trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, bị coi là ph.... đ.... chống đảng, bà Thái Thị Liên phải cáng đáng gia đình, cùng với 3 người con riêng-chung, trong đó có cậu quý tử Đặng Thái Sơn dạy nhạc thêm kiếm sống; chấp nhận, chịu đựng một cuộc đời cực nhọc vất vả.
Cũng từ đó, kể cả nhiều năm tháng đi sơ tán ở các vùng quê xa Hà Nội, Đặng Thái Sơn học âm nhạc, học chơi dương cầm với mẹ là chính. Cuộc đời khốn khó, nhưng bà là một nhà sư phạm nghiêm khắc, khó tính và ít khi đưa ra lời khen, thậm chí Đặng Thái Sơn còn bị “đối xử” rất khắt khe nữa.
Năm 1974, một chuyện bất ngờ đã xẩy ra làm cho cuộc đời của Đặng Thái Sơn bước sang một khúc ngoặt: Một vị giáo sư âm nhạc Liên Xô người Nga, gốc Do Thái tên là Isaac Katz, sang dạy cho Trường Âm nhạc Hà Nội đã tình cờ phát hiện ra Đặng Thái Sơn.
Chuyện kể rằng một buổi chiều nọ, ông Katz đang tản bộ trên con đường gần nhà bà Thái Thị Liên, ông nghe thấy một tiếng đàn dương cầm rất hay, rất đáng chú ý. Lần hồi ông Katz đã tìm được đến nhà bà Thái Thị Liên và gặp cậu con trai Đặng Thái Sơn, một học sinh Trường Âm nhạc Hà Nội, năm nào cũng đứng đầu lớp.
Sau vài lần chứng nghiệm khả năng của người học sinh này, giáo sư Isaac Katz chính thức yêu cầu Trường Âm nhạc Hà Nội cho ông được đích thân truyền dạy cho người học sinh xuất sắc đó; mặc dù trên nguyên tắc ông Issac Katz chỉ dạy những học sinh năm cuối trước khi thi tốt nghiệp, và Đặng Thái Sơn, phải một năm sau mới hội đủ điều kiện này.
Năm 1975 giáo sư Isaac Katz về nước.
Trước khi về ông đã đề nghị cho Đặng Thái Sơn được theo học dương cầm tại Liên Xô. Lời đề nghị này không được chấp thuận, bởi vì lý lịch tối của Sơn.
Lời đề nghị không có phản hồi; giáo sư Isaac Katz đã phải yêu cầu lần thứ hai, kèm theo lời đề nghị này là thái độ cứng rắn của ông. Ông tạo một sức ép đủ mạnh để người học trò ông chọn phải được đi học ở Liên Xô để có nơi dạy dỗ đến nơi đến chốn.
Thế là năm 1976, Đặng Thái Sơn được phép tập trung học ngoại ngữ để đi học âm nhạc tại Liên Xô. Tháng 7 năm 1977 anh lên đường sang Liên Xô, và thi đậu học thẳng vào Học viện Âm nhạc Tchaikovsky. Trước anh chưa có một người nào vào được vào học viện này mà không qua một năm dự bị. Năm đó anh mới 18 tuổi.
Khi vào học tại Học viện Âm nhạc Tchaikovsky, Đặng Thái Sơn gặp một vị danh sư khác. Đó là giáo sư Natanson. Nếu như Isaac Katz là người khám phá ra tiếng đàn Đặng Thái Sơn, tìm mọi cách mang anh về Liên Xô để có thể tìm đúng thầy, thì Natanson chính là ông thầy này, một thầy dạy tận tâm và rất giỏi.
Sơn được cấp học bổng 70 rúp một tháng. Số tiền này chẳng nhiều nhặn gì, nếu tính theo hối đoái thời đó thì chỉ tương đương với khoảng 20 USD. Sơn có hai người bạn thân trong thời gian này, cả ba góp gạo thổi cơm chung, dè sẻn từng đồng mới có thể tạm đủ ăn và thỉnh thoảng vẫn phải đi làm thêm để kiếm tiền chi dụng hàng ngày.
Năm 1980, khi còn là sinh viên năm thứ ba, Học viện Tchaikovsky thấy tài năng nổi trội của anh, đã gửi anh đi dự thi cuộc thi âm nhạc piano Chopin nổi tiếng.
Giáo sư Natanson thúc đẩy anh phải nộp đơn và hoàn tất thủ tục xin dự thi. Đặng Thái Sơn bèn làm đơn với tòa Đại sứ Việt Nam xin được giới thiệu là một ứng viên Việt Nam đi thi Chopin và xin cấp ít tiền lộ phí vì đường từ Moskva đến Warszawa, thủ đô Ba Lan quá xa, mà anh làm gí có tiền.
Đơn của anh đã bị bác.
Anh không thể đi thi với tư cách thí sinh Việt Nam.
Khi ấy Liên Xô cũng chuẩn bị và cử một số nhạc công đi Warszawa dự thi. Họ tổ chức một kỳ thi tuyển lựa cả trăm người để tìm ra mươi người đại diện cho Liên Xô. Những người này sẽ được chính phủ Liên Xô tài trợ.

Cuối cùng Đặng Thái Sơn phải dự thi với tư cách tự do, vô tổ quốc và không được chính quyền Liên Xô giúp đỡ, cũng không được Chính phủ Việt Nam tài trợ.
Không những thế, ban tổ chức kỳ thi Chopin ở Ba Lan đã toan bác đơn xin dự thi của Đặng Thái Sơn, vì đơn dự thi của anh không một lời giới thiệu, chẳng biết anh là ai, nhưng rồi họ cũng thông qua, vì Sơn là người Việt Nam đầu tiên xin dự thi từ trước đến giờ. Vả lại anh có sau lưng cả một Học viện Âm nhạc Tchaikovsky làm chứng cho khả năng của anh.
Giáo sư Natanson thấy vậy lại phải ra tay giúp đỡ vì ông biết người trò cưng đầy tiềm năng của ông rất có hy vọng thắng giải. Ông phải bỏ tiền ra cho Đặng Thái Sơn mua vé xe lửa đi Warszawa, thuê nhà trọ, thuê cả dàn nhạc đệm cho anh ta đánh đàn - Một số tiền không nhỏ.
Khi Sơn đi thi từ Moskva, không có một người thân nào ra tiễn tại sân ga, cũng chẳng có một người bạn nào đến đón khi tới Warszawa. Hành lý của anh thì thật nhẹ, vài bộ quần áo tạm lành lặn. Anh không có cả một bộ đuôi tôm để lúc hữu sự dùng đến… Buồn quá, Sơn đã phải dốc bầu tâm sự với ông bố Đặng Đình Hưng.
Trong thư gửi cho cha mình, Đặng Thái Sơn viết:
“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Warszawa quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-tan-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có - Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp được Chopin - Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…”
Và hình như thế, Sơn đã được Chopin chọn, anh qua được vòng loại một cách dễ dàng, loại hầu hết 149 đối thủ thuộc 37 quốc gia trên toàn thế giới, rồi tiến lên vào vòng chung kết. Để vào vòng chung kết Sơn bị kẹt một điều là thí sinh phải mặc áo đuôi tôm. Anh có hai ngày chuẩn bị cho buổi chung kết; nhưng làm sao có áo đuôi tôm bây giờ? Người gỡ rối cho anh lại là giáo sư Natanson.
Ông thầy phải lôi anh đến một cái tiệm, sắm cho anh một bộ, nhưng tìm cả nửa ngày không có một chiếc nào vừa với thân thể nhỏ thó của anh. Thế là đành may một chiếc, lấy trong vòng 24 giờ. Anh bước vào phòng thi với cái áo còn chưa được nhặt sạch chỉ.
Kết quả anh đã thắng giải đầu là giải quan trọng nhất; anh còn đoạt thêm 11 giải phụ nữa, trong đó có một giải của hãng truyền hình NHK Nhật Bản; chính hãng NHK sau này mở cho anh một con đường đi biểu diễn ở Nhật Bản và các nơi trên thế giới.
Tin Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin ở Warszawa đã như một làn sóng chấn động giới âm nhạc cổ điển thế giới.
Khi tin này về tới Việt Nam thì báo Nhân Dân của nhà nước Việt Nam - những người đã từng không muốn anh ra khỏi nước, không muốn anh học dương cầm tại Liên Xô, lại còn tìm cách cản trở anh đi Warszawa tham dự kì thi Chopin - đã đăng tin này lên trang Nhất trong 3 ngày liền, với những lời sẽ ca tụng quá lố đến nỗi cả tháng sau, khi về nước thăm ông cụ thân sinh, anh vẫn còn ngượng khi đọc những dòng chữ này.
Cuộc sống sau “Nhân văn Giai phẩm”, nhà thơ Đặng Đình Hưng bị ung thư phổi. Khi Đặng Thái Sơn tham dự cuộc thi âm nhạc năm 1980 tại Ba Lan, Đặng Đình Hưng đang phải sống trong cảnh bệnh tật, gần đất xa trời.
Đặng Thái Sơn về nước kịp thời. Cha anh bị bệnh đã khá lâu và không được điều trị một cách đúng mức. Cha anh cần phải mổ ngay, một cái bướu trong phổi. Anh về nhà hôm trước, với tiếng tăm của anh đã được đăng đàn, chỉ vài ngày sau cha anh được nhập viện. Cha anh được bác sĩ Tôn Thất Tùng, người bác sĩ số một của y khoa Hà Nội khám bệnh và giải phẫu bởi một bác sĩ lừng danh về phẫu thuật. Nhờ vậy mà cứu ông cụ sống thêm được mười năm nữa.

Năm tháng qua đi, dù cả cuộc đời “sau Chopin” Đặng Thái Sơn chỉ ở Nhật và du diễn khắp thế giới rồi định cư ở Canada, nhưng anh vẫn được nhà nước “lôi” về gắn lên ve áo danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân - cho dù phần lớn nhân dân chẳng biết anh là ai, và cũng chẳng bao giờ nghe-hiểu nổi thứ âm nhạc mà anh đánh ra...!
Nhưng có lẽ chính người nhạc sĩ đã không để tâm đến danh hiệu nghệ sỹ nhân dân. Ngay sau khi tốt nghiệp, ông đã sang sống ở Nhật Bản và sau đó cùng với người mẹ, bà Thái Thị Liên đã đi định cư tại Montreal, nhập quốc tịch Canada sống đến ngày nay.
(Dựa theo bài viết của Son Nguyen)
BÙI PHI HÙNG
Facebook anh Kim Van Chinh

Thanked by 2 Members:

#223 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 21/06/2021 - 21:34

Một Mảnh Đời Hồ Dzếnh
Trần Mộng Tú

Vào năm 1954, gia đình tôi mới di cư vào Nam thì nhận được một lá thư của Hồ Dzếnh (thời gian đầu của năm 1954-1955 Bắc-Nam còn nhận được thư).Lúc đó tôi còn bé chưa biết ông là một thi sĩ, Ba tôi nói: Có người đàn ông Trung Hoa muốn lấy thím Phương. Thím Phương của chúng tôi là vợ góa của chú Trần Trung Phương, người có tập Thơ cho học trò Mấy Vần Tươi Sáng, mà từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã thuộc lòng nhiều bài trong đó. Khi học ở Tiểu Học được học lại ở trong lớp như những bài Học Thuộc Lòng.
Chiều qua trăng ngã xuống hồ
Bầy sao nghịch ngợm đổ xô xuống tìm
Trên không có mấy con chim
Vội vàng đâm bổ đi tìm bóng trăng.
(Vội Vàng- TTP)

Lá thư của chú Dzếnh, tôi không được đọc, chỉ nghe Ba nói là một lá thư với lời lẽ hết sức lễ phép, xin phép anh chị cho em được thay anh Phương vào làm em anh chị trong gia đình. Ba tôi vốn sẵn hiền lành, nên đọc thư cảm động đến ngồi ngây người ra, không biết trả lời sao cho xứng với lá thư đó.
Chú Trần Trung Phương của tôi khi còn sống viết văn, làm báo cho thiếu nhi, hoạt động chống Pháp, bị bắt, tra tấn trong tù. Khi được thả ra thì ho lao chết ngày 24/7/1945. Lúc đó con trai mới 6 tháng tuổi. Thím Hồng Nhật, một người đàn bà có học, có nhan sắc, yêu văn chương, được tất cả các bạn văn của chồng kính nể. Mỗi năm làm giỗ chồng, thím mặc khăn áo đại tang làm giỗ, mời các bạn Văn/ Họa Sĩ của chồng như: Mạnh Quỳnh, Hữu Thanh, Tống Ngọc, Tam Lang, Khái Hưng v.v… đến dự. Ai cũng kính phục.
Thím ở vậy nuôi con, cho tới khi gặp Hồ Dzếnh. Cũng nên nhắc lại, thím Hồng Nhật cũng viết văn, làm thơ, lúc trẻ Hồng Nhật có gửi bài cho Phong Hóa và Ngày Nay là thời điểm Trần Trung Phương đang phụ trách trang Thiếu Nhi của hai tờ báo này. Duyên văn nghệ đưa đến cuộc hôn nhân đẹp nhưng quá ngắn (Không đầy 2 năm).
Khi chú mất, tôi cũng chỉ hơn em Cường một tuổi nên không biết gì cả.
Lớn lên mới biết thím là một phụ nữ đảm đang, qua bao nghịch cảnh, góa chồng, ly loạn vẫn gây dựng lại được những gì đã mất. Hiệu Sách Bình Minh 200 A, Phố Huế, nức tiếng ở Hà Nội một thời.
Vào năm 1951 thím Hồng Nhật muốn tái bản tập thơ Mấy Vần Tươi Sáng, nên có vào Nam nhờ Hồ Dzếnh đỡ đầu. Hồ Dzếnh cũng đang trong cảnh gà trống nuôi con rất vất vả. Hai người cảm thông nhau cùng hoàn cảnh góa bụa, cùng có hai đứa con trai nhỏ, cùng yêu văn chương nên nhanh chóng yêu nhau. Đầu năm 1954 Hồ Dzếnh trở về Hà Nội, cuối năm đó lập lại gia đình với thím Hồng Nhật.
Giai Thoại kể lại: Hôm đám cưới, các bạn văn cũ của chú Phương đến dự đông đủ, có một người ra câu đối: Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ. Không ai đối được.
Cũng có thêm giai thoại nữa về cái tên Hồ Dzếnh, bạn hữu hay gọi đùa là Hồ Dính và có ra câu đối: Hồ Dính, dính hồ, hồ chẳng dính, có người đối là Ngọc Giao, giao ngọc, ngọc không giao.
Sau năm 1975 chú Dzếnh và Thím Hồng Nhật có vào Nam tìm gia đình anh chị, thì cha mẹ và chúng tôi đã sang Mỹ. Khi tôi liên lạc được với chú thím bằng thư thì cha mẹ tôi đã qua đời. Lá thư cuối tôi nhận được, chú nhờ tôi lấy tiền nhuận bút của những nhà sách bên Mỹ đã tái bản và phát hành những tác phẩm cùa chú nhưng không nhà xuất bản nào trả một đồng (Các nhà xuất bản hồi đó điều nghĩ việc họ tái xuất bản sách Việt ở hải ngoại là một đặc ân họ ban phát cho tác giả.)
Năm 1998 lần đầu tiên tôi về Việt Nam thì chú Dzếnh đã mất được 7 năm (1991). Buổi tối, nằm ngủ chung với thím trên chiếc giường của hai người, nghe thím kể lại: lúc biết mình sắp mất, chú đòi về nhà, mất trên cái giường của vợ chồng. Câu cuối cùng của chú là lời gọi: Mình ơi! trước khi nhắm mắt.
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
Mai này tới phút chia đôi
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi!
(Bài Thơ Tặng Vợ - Hồ Dzếnh)
Chú Dzếnh muốn đi sau để tránh cảnh thương đau cho thím, nhưng chú lại là người đi trước. Trên chiếc giường gỗ ở ngôi nhà 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, trong bóng tối mờ mờ của ngọn đèn đêm ngoài phố hắt vào, tôi nằm cạnh thím, nắm chặt bàn tay già nua của thím, nhìn lên đình màn, hình dung ra khuôn mặt thanh nhã với nụ cười hiền lành ở bức ảnh trên bàn thờ của một thi sĩ Trung Hoa mang trái tim Việt Nam trong lồng ngực, tôi nói thầm trong lòng: Cám ơn thi sĩ đã vào trong gia đình họ Trần Trung.
Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những bài Thơ học trò ngây thơ trong Mấy Vần Tươi Sáng của thi sĩ Trần Trung Phương và tôi nghĩ đó chính là những hạt giống văn chương đã gieo vào mảnh đất hồn tôi để sau này mọc lên hoa trái. Rồi tiếp theo đó là Thơ và Văn Chương trong sáng, giản dị của Hồ Dzếnh ảnh hưởng tới văn chương và cách viết của tôi.
Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi cả hai ông chú tuyệt vời.
tmt
Tháng 7/25/2017

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#224 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 23/06/2021 - 23:26



Cô môi chề và số phận cái gùi!

Ông là người Miền Tây Nam Bộ, là người con út trong gia đình có 3 người con. 2 trai 1 gái. Ba ông là một võ sư giỏi có tiếng nhất vùng vào thời đó. Má ông rất đẹp, bà có nét lai của người Tây Phương, trắng, mũi cao. Cả 3 người con đều giống bà hơn giống ông. Công việc của bà hằng ngày ra chợ thu tiền thuê chỗ “Chợ Quận” của các bạn hàng mua bán mỗi ngày. GĐ rất khá giả, có nhiều đất đai và 1 nhà máy xay lúa.

Ngày ông thi đậu tú tài gia đình vui mừng tổ chức tiệc linh đình, mời họ hàng và cả xóm đến chung vui, nhưng mấy hôm sau biến cố ập đến cho cả gia đình của ông. Ba ông bị mất tích... 3ngày sau gia đình ông nhận được tờ giấy của người quen với ba ông mang tới. Trong thư viết: “tôi bị tụi nó (VM) bắt cùng với Thầy rồi, mình liệu mà mang mấy con đi lên chú Bảy ở đi.”

Vậy là 4 mẹ con bán mắc bán rẻ tất cả tài sản, gồng gánh nhau lên nhà chú Bảy (bà con) ở Lâm Đồng tạm lánh nạn. Nếu là ở tạm thì đôi ba bữa, nữa tháng là cùng. Má ông bàn với chú Bảy là bà cũng muốn làm ăn trồng trà như vườn trà của chú vậy. Bà nói với chú, “coi bộ tình hình này anh của chú khó đuợc tụi nó thả cho về, thì thôi tôi nhờ chú giúp cho mẹ con tôi ở đây lập nghiệp luôn. ý nguyện của anh chú là muốn cho 2 anh em thằng  đi Pháp học, còn con bé hai thì là con gái ở gần tôi sớm hôm có mẹ có con.”

May mắn ngay lúc đó bên cạnh đồn điền trà của chú Bảy người ta muốn bán để đi Pháp. Với điều kiện đúng một năm người ta mới giao, vì còn phải đợi giấy tờ từ bên Pháp. Chú Bảy nói vậy cũng tốt để cho cả nhà trong thời gian chờ đợi học hỏi thêm kinh nghiệm. May là họ cho lấy trước cái nhà để gia đình ở tạm.
Y như lời hứa, đúng năm sau gia đình ông làm chủ cái đồn điền ấy. Niềm vui chưa được bao lâu thì nghe hung tin của ba ông đã chết cùng Thầy của ông, chết một cách “đau đớn”...

Vậy là hai anh em của ông đổi ý không còn muốn đi Pháp học. Vì anh em ông không muốn bỏ lại 2 người phụ nữ (má và chị), với sự nghiệp mới gầy dựng, má ông nói thôi để cho ông đi một mình trước xem sao rồi từ từ tính. Ông nói để ông suy nghĩ.

Một hôm ông xin phép má về quê ăn đám cưới của anh thằng bạn cùng sớm và cũng là bạn cùng đội đá banh với ông thời còn ở tại quê. Lâu ngày về quê gặp lại bạn bè và được làm rể phụ qúa xá là vui. Nhưng ông cũng rất buồn khi đi ngang nhìn lại căn nhà cũ của gia đình.

ĐỊNH MỆNH!

Ngày đi đón dâu ông ngỡ ngàng và ngây ngất bởi cô dâu phụ...dáng nguời cao, gầy, đầy đặn, (thời đó phụ nữ 1m65 là như cây tre khó lấy chồng lắm). Nhưng với ông, cô rất đẹp - miệng cười với cái “môi chề chề” làm ông xao xuyến. Ông nhờ bạn hỏi thăm bên đàng gái cô dâu phụ cao cao đó gia thế như thế nào ? Và ông được biết cô ấy gia đình nhà cũng có 3 chị em, cô là chị lớn nhất. Hỏi ra mới biết hoàn cảnh gia đình của cô cũng nghiệt ngã đau thương gần giống như gia đình của ông.

2 ngày sau ông hỏi thăm biết được nhà của cô “môi chề” ông rủ người bạn đi cùng đến nhà của cổ. Rất dễ dàng bắt chuyện với má cô (tuy má cô rất là khó) vì nhờ sự quen biết của người bạn - ông không ngại nói thẳng với má cô là ông rất thích cô, và muốn mời cô đến nhà bạn, nơi ông đang ở, ăn một buổi cơm trước khi ông đi về. Má cô bằng lòng ngay vì nhìn thấy mặt mày ông khôi ngô, nói năng lễ phép, và quen biết thân tình với gia đình mà bà đã biết.

Sau buổi cơm chia tay ông về lại Lâm Đồng kể chuyện và cho má ông biết muốn cưới cô “môi chề” dâu phụ đó làm vợ. Má ông đồng ý vì thương ông và tin ở ông là người biết suy nghĩ chính chắn.

Đám cưới được tổ chức trong 5 tháng sau, bên đàng trai từ Lâm Đồng xuống Long Xuyên làm lễ theo nghi thức, Đàng gái đãi tiệc linh đình, nhưng khi đón dâu chỉ một mình cô dâu và má cô dâu đi thôi, vì lúc đó phương tiện xe cộ đi lại xa xôi, hơn nữa dân quê không quen đi đâu xa nhà trong đôi ba ngày. Về Lâm Đồng Tiệc cưới được tổ chức rất vui tuy bên đàng gái chỉ có cô dâu và má của cô dâu - vui vì nhờ những người làm công là dân địa phương (Thổ Dân gọi là người Mạ) họ múa hát nhảy nhót suốt đêm. Họ rất thích y phục cưới của Dân Tộc Kinh của chúng ta.

Má cô dâu sau đám cưới 10 ngày đòi đi về nhà, con gái và con rể muốn bà ở lại chơi thêm nhưng bà không chịu. Đôi vợ chồng trẻ đành thu xếp cùng đi đưa bà về. Chia tay má, hàng xóm, bạn bè, Hương (vợ ông) khóc suốt đoạn đường cả ngày lẫn đêm, từ Long Xuyên tới Lâm Đồng sưng hết cả 2 con mắt.

Cuộc sống nơi xứ lạ quê người ngày qua ngày được cả nhà chồng yêu thương, vì cô là chị lớn trong nhà, tháo vát giỏi giang, chồng rất cưng chìu không rời xa cô dù chỉ nửa ngày.
Niềm hạnh phúc nhân đôi sau 3 tháng cô có thai. Các buổi chiều ngày ngày ông dìu cô ra bờ suối với cây đàn hát cho cô nghe, có hôm ông nhìn lên đám mây rồi nói với cô, “anh thích mình có con gái, anh sẽ đặt tên cho con là Hương V”. Anh muốn con mình tinh khiết như đám mây trắng kia hoà quyện cùng mùi hương của em, vì anh biết rằng 2 mẹ con em là một “vật thể vô giá” nó sẽ mãi mãi trong trái tim của anh. Nhưng cô nói, “em thấy HV nghe không được suông tai lắm, mình đổi lại là TV được không? vì con mình sanh ra nhằm mùa thu” Đương nhiên là ông vui vẻ nói bằng lòng với vợ. Đến ngày gần sanh cũng sắp bước vào mùa đông rất lạnh, ông muốn lên chợ Đà Lạt mua đồ lạnh cho vợ và đứa con sắp ra đời. H đòi đi theo, ông hỏi Má ông xem có nên cho H đi theo? Má ông nói thôi cho vợ con đi cho nó vui gần ngày sanh nằm ụ lâu lắm, nhưng chạy xe chậm chậm thôi. Lúc đó đường đi cũng không tốt gì cho lắm, nhỏ hẹp, xe chạy ngược chiều một chiếc phải ngừng lại cho chiếc kia đi qua! Lên tới Đà Lạt mua đồ và ăn uống xong chuẩn bị trở về nhà thì vợ ông đau bụng dữ dội ngồi quỵ bên đường, ông sợ qúa không biết làm sao, người qua đường mỗi người nói một tiếng làm tâm trí ông rối bời...cuối cùng có người la lên chắc đau bụng đẻ đó...chở cổ vô nhà bảo sanh đi!!! Một bà còn nói thêm, “gần ngày sanh mà chở nhau đi đâu chị cho khổ vậy không biết nữa! Ông liền quay sang người phát ra tiếng nói và hỏi, chị có biết nhà bảo sanh ở đâu chị chỉ dùm tôi cám ơn - mà thôi nếu chị biết chị lên xe tôi chở chị đi luôn để chỉ đường tôi chạy tới đó nha chị?. 2 người dìu vợ ông lên xe chạy tới nhà bảo sanh, sau 45p H sanh liền, bé TV chắc vui vì được hội nhập với thế giới “muôn màu” này...hay lo sợ cho tương lai...mà TV cứ khóc hoài không nín. Vợ con của ông ở lại nhà bảo sanh 1 tuần mới về nhà.

Họ được tất cả công nhân (Thổ Dân) thương yêu và kính trọng, hạnh phúc ngút ngàn khi đứa con gái ra đời. Cả đồn điền như ngày mở hội vui chơi mấy ngày đêm. Càng ngày đồn điền càng làm ăn khấm khá, hạnh phúc mặn nồng hơn. 2 năm sau vợ ông có mang và sanh ra một cậu con trai, cuộc sống qúa tuyệt cho đôi vợ chồng trẻ.
Chuyện vui riêng của hai vợ chồng ngay lúc này không đủ lớn để khoả lấp hung tin người anh duy nhất của ông bị tai nạn xe chết tại chỗ. Để lại 3 đứa con gái và người vợ còn xuân sắc!!!

Đến lúc TV vừa qua 5 tuổi, TV thích theo ba ra vườn trà chơi vì ở đó có nhiều người ẵm bồng đùa giỡn với bé, nhất là TV thích tự tay hái mấy trái trà - trái trà màu xanh tròn nhỏ bằng đầu ngón chân cái của người lớn. TV thích cho vào miệng cắn bể ra bên trong toàn là nước mát mát, thơm thơm, nhè nhẹ, của mùi hương gì rất khó tả. Ngày qua ngày cứ như thế, một hôm ông nhìn thấy con gái vừa đi vừa chạy, trong tay thì cầm mấy trái trà chạy tung tăng, bàn tay của con gái thì nhỏ cẩm mấy trái trà cứ rớt lên rớt xuống đất liên tục.
Sáng hôm sau ông thức sớm đi ra ngoài. Khi trở về tay cầm cái gùi nhỏ, khi chân ông vừa bước tới cửa, miệng đã kêu lên con gái cưng TV của ba đâu rồi? Cũng vừa lúc có người đưa thơ tới trao cho ông một phong bì, thoạt tiên ông nhìn 2 mắt trợn lên vì ngạc nhiên, ông ôm cái gùi vào ngực dùng 2 cánh tay và càm giữ nó lại, dùng hết 2 bàn tay xé thư ra xem, đọc xong ông xếp thư lại bước đi có vẻ nặng nề và suy nghĩ, trán ông đanh lại. Ông đi tìm vợ của ông. gặp vợ cùng với con gái, ông ôm con gái vào lòng lấy cái gùi mang lên vai con gái và nói, “Đây là chiếc gùi đầu tiên ba mua cho con gái cưng của ba, và ba hứa là mỗi năm con lớn ba sẽ mua từng cái lớn theo tuổi của con...cho đến khi nào con có chồng ba sẽ giao niềm hạnh phúc này lại cho người yêu thương con như ba vậy.”
Đêm đó ông cùng vợ vào phòng của má ông, bà đang nằm thấy 2 người có vẻ khác thường bà liền ngồi dậy hỏi có chuyện gì mà thấy 2 đứa bây lạ quá vậy? Ông bắt đầu nói cùng lúc nước mắt của vợ cũng rơi xuống như mưa. Ông nói, “Má ơi, con biết trong gia đình mình chỉ còn lại một mình con là trai, con đi rồi ở nhà má và vợ con lo lắm, nhưng con xin má cho con đi nha má? Con đi ổn định rồi con về rước vợ con của con và má, mình về lại quê mình sống, tạm thời đồn điền này giao cho anh chị 2 ( chị đã lập gđ ) chị ba trông coi dù sao cũng có chú Bảy kế bên.” Ông ngồi thuyết phục bà mấy tiếng đồng hồ, bà nhìn sang con dâu và hỏi, “con thấy sao con?” Vợ ông trả lời trong nước mắt, “Ảnh cũng có lý của ảnh vì lời hứa với mấy anh em, vì chính nghĩa, vì thù ba bị giết, con làm sao dám ngăn cản ảnh má ơi.” Lời nói của vợ như rất thông cảm cho chồng, nhưng trong giọng nói mang đầy sự hờn mát, xót xa.

3 tháng sau khi ông đi, ông có gửi về cho vợ một lá thư, trước hỏi thăm má ông cùng mọi người trong nông trại, gia đình chú Bảy, anh chị hai chị ba cùng mấy cháu, nguyên trang sau toàn là cho con gái TV của ông. Ông nhắc con gái là phải giữ gìn cái gùi cho kỹ, vì khi con mang cái gùi trên lưng con phải nghĩ là như ba đang ôm con vậy con gái à!

6 tháng sau nhằm ngày 15 tháng chạp, còn 15 ngày nữa là Tết, vào lúc 3 giờ sáng có người gõ cửa...trong nhà ai cũng giựt mình vì chưa có trường hợp này bao giờ. Người lớn trong nhà ai cũng cùng lúc đi ra, vừa mở cửa thấy một chú mặt đồ lính, kế bên còn một chú nữa đang còn ngồi trên xe Jeep. Chú đứng ngay cửa nói với giọng run run, anh Ba kêu em lên đây đón chị Út (là cô môi chề) và bé TV về dưới, Bác vì đường xa và lớn tuổi nữa nên không cho Bác đi. Má ông la lên, “Nhưng rước vợ nó xuống đó để làm gì?!?!” Trong lúc này vợ của ông 2 chân muốn quỵ xuống vì cô biết có sự chẳng lành, cô chỉ hy vọng chồng mình phạm lỗi tài trời gì đó...nên anh Ba mới cần vợ và mang con gái cưng xuống cho ông gặp- để nhờ vợ khuyên bảo ông. Chú lính nói, “dạ, anh Út bị vc ám sát cùng 5 người lính cận vệ cho ảnh cũng chết luôn.” Má và chị ông đều xỉu...còn mình vợ ông thì bình tĩnh trong đau đớn 2 vành môi của cô bấm lấy chặt vào nhau mà vẫn còn thấy run. cô vào quơ vài bộ đồ cho cô và cho con gái rồi đi thẳng ra xe. lúc này mọi người làm trong nhà đều thức dậy, đang chăm sóc cho má và chị chồng của cô. Cô dặn người làm khi nào bà khỏe nói cô hai lấy xe nhà đưa bà đi xuống luôn, cho ông Bảy biết nữa nha.

Mãi tới chiều gần tối cả đoàn mới đi tới nơi. Vợ ông và bé TV gần 6 ( là mình...là PV của ngày nay...và mãi mãi là TV trong tim của Ba Tôi!!! ) tôi nhìn thẳng tới chỗ có nhiều người - nhìn xuống chân của mấy người đó có nhiều người nằm như ngủ, bên cạnh có 6 cái thùng dài dài bằng cây có sơn màu vàng bóng. “Ô kìa!” Má tôi vừa khóc vừa chạy vô kêu thất thanh anh ơi! Vợ con của anh đã tới rồi đây!!! Má tôi khòm người xuống ôm cái đầu ba tôi lên và để vô ngực của bà khóc than thảm thiết , “cản anh không được...lý tưởng của anh...lời hứa của anh...lòng thù hận của anh...!!! vậy còn lời hứa của anh với em...với con gái của anh thì ai giữ cho mẹ con em đây?!?!” Tôi thấy máu từ người Ba tôi chảy ra ướt hết cái lưng. Mọi nguời cùng lúc la lên, trời ơi ổng nằm đây 2 ngày rồi, người được tấm rửa sạch sẽ mặt quần áo khô rang, mà giờ vợ con ổng tới ổng tức tưởi nên máu ra như vậy!!! Cái áo sơmi caro đen trắng mà Ba tôi thường mặt khi chở Má tôi và tôi đi dạo mát. và cũng là cái áo do chính tay Má tôi may cho Ba tôi.

Đó là hình ảnh nó đã đi theo mình suốt 58 năm qua.

Đôi lúc mình có thể bình thản đối diện với từng cơn bão to gió lớn...và cũng có lúc chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ làm cho mình tan biến ra từng mảnh vụn; Vì mình cảm thấy sự cô đơn không điểm tựa về mặt tinh thần từ lúc mình không con có ba, và phải xa má về ở với ông bà ngoại. Khi lớn lên mình luôn lo sợ biến cố sẽ đến với mình bất cứ lúc nào. “Và nó đã đến với mình nhiều lần… như để thử thách số phận côi cúc của mình các bạn ạ”.
Và từ đó mình thật sự hoàn toàn mất niềm tin trong cuộc sống với cái vỏ bên ngoài mạnh mẽ mà ai cũng thấy….

Bên cạnh những nghiệt ngã của cuộc đời; mình may mắn có được cô con gái ngoan hiền, đạo đức, 2 mẹ con ngoài tình mẫu tử chúng tôi đối với nhau như tri kỷ vậy. Cám ơn Trời Phật, cám ơn ba má mình, phù hộ cho mình được sống tới ngày hôm nay, để được yêu thương trọn vẹn tình mẫu tử với đứa con gái của mình!

PV:❤️

Thanked by 1 Member:

#225 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 28/06/2021 - 21:16

Như Mai: Một cô gái vô tiền khoáng hậu

Không thể tìm thấy một người thứ hai như cô Như Mai. Không chỉ là người phụ nữ vô địch bóng bàn VN đầu tiên, cô còn là người phụ nữ VN đầu tiên vô địch đua xe đạp, xe gắn máy, đua xe hơi, lái máy bay... và nổi danh ở cả lĩnh vực sân khấu!

Vào ngày 11-11-1950, đoạn ven sông Sài Gòn từ cầu Tân Thuận đến bến Bạch Đằng đông nghịt người hâm mộ. Người ta đến để xem cuộc thi bơi 3.000m trên sông. Kỳ thú hơn, cuộc thi không chỉ dành cho nam giới, mà lần đầu tiên có cả giới nữ tham gia. Dĩ nhiên, số vận động viên nữ không nhiều, chỉ trên chục người và phần lớn là người nước ngoài. Trong số rất ít phụ nữ VN tham gia, cô Như Mai là ứng cử viên số một.

Cuộc thi xuất phát tại một sà lan đặt trên sông Sài Gòn khúc cầu Tân Thuận. Các VĐV bơi đến trước khách sạn Cửu Long bây giờ và quay về. Như Mai không chỉ về nhất phía nữ mà còn qua mặt vô số các đấng nam nhi! Nhờ thế, cô được Tổng cuộc Bơi lội Pháp - Việt cấp một giấy chứng nhận đã hoàn thành cự ly bơi ở sự kiện đầu tiên này.

Chuyện bơi không chỉ cho vui, cho khỏe mà là một nghề kiếm sống của Như Mai. Ngoài giờ đi làm trợ lý cho một dược sĩ, cô còn dạy thêm bơi lội. Lịch sử bơi lội VN không chỉ ghi tên Như Mai như là người đầu tiên bơi vượt sông, mà năm 1964 cô còn được cử sang Nhật học một lớp đào tạo huấn luyện viên (HLV) bơi lội quốc tế, nhân dịp nước này tổ chức Olympic 1964. Năm 1965, cô tham dự SEAP Games 3 tại Malaysia với tư cách là HLV đội bơi VN. Hiện cô vẫn còn giữ chiếc bằng HLV bơi lội quốc tế do Ủy ban Olympic Nhật cấp.

Chưa hết, trong ngày lễ khánh thành hồ bơi An Đông, cô đã làm mọi người
tròn mắt ngạc nhiên bằng màn biểu diễn... nhảy cầu ở vị trí cao nhất!
Nào chỉ có bóng bàn, bơi lội, nhảy cầu, cô Như Mai còn tham gia đua xe đạp, xe gắn máy (các loại Mobylette, Solex) và đều qua mặt tây đầm để đoạt giải nhất. Cô cho tôi xem một loạt ảnh chụp ở một cuộc thi xe đạp vào năm 1950 mà vạch xuất phát lẫn đích đến đều ở trước Nhà hát thành phố bây giờ. Trong ấy, tôi đặc biệt thích tấm ảnh cô Mai về nhất “một mình một ngựa”, và cạnh đó là một ông tây đang ra sức phất chiếc cờ ô vuông đen - trắng.

Dù chỉ là kẻ hậu sinh, không được chứng kiến cảnh ấy, nhưng sao trong tôi vẫn trào dâng một cảm xúc bồi hồi khó tả. Chả trách sao nhiều độc giả lớn tuổi khi xem lại những tấm ảnh cũ kỹ, nhòe nhoẹt trong loạt bài “Đấu trường vinh quang - ngày ấy & bây giờ” đều gọi điện cho biết không cầm được nước mắt.

Trở lại cuộc đua xe đạp của cô Mai, thật thích thú khi được nghe chuyện ban tổ chức ngày ấy muốn các nữ VĐV vẫn phải giữ được cái duyên con gái, bằng cách cứ đua đến trước cổng Sở thú (Thảo cầm viên bây giờ) là phải dừng xe lại, có người phát cho một cây kim và sợi chỉ. VĐV phải xỏ kim xong mới được leo lên xe chạy tiếp!

Cô Mai cười ngất kể: “Tụi tôi đua tất cả 12 vòng (tổng cộng 30km), nghĩa là phải qua 12 lần xỏ kim. Mấy vòng đầu còn đỡ, đến mấy vòng cuối quá mệt nên tay cứ run bần bật, xỏ mãi mới được. Nhưng cũng nhờ cái trò này mà tôi mới thắng được mấy bà đầm. Họ đạp khỏe lắm, nhưng đến lúc xỏ kim là lóng nga lóng ngóng làm mãi không xong”.

Vẫn chưa hết, cô Mai còn chơi luôn cả xe hơi. Nhờ ngày ấy đi làm cho các hãng dược, rồi đi dạy bơi, tiền bạc cũng rủng rẻng, cô bèn mua một chiếc xe hơi để đi làm. Năm 1954, Tổng cuộc Xe hơi VN tổ chức một cuộc đua xuất phát từ Sài Gòn lên Đà Lạt, xuống Nha Trang, quay trở lại Đà Lạt rồi về Sài Gòn với tổng chiều dài 1.040km. Có trên 100 người tham gia cuộc tranh tài, và không chỉ có VN mà rất nhiều khách quốc tế cùng dự.

Như Mai ở cuộc đua ấy sử dụng chiếc Fregat mang biển số NBF342, và số xe dự thi là 24. Thân gái dặm trường qua Prenn, xuống rồi lên Ngoạn Mục và về đến Sài Gòn an toàn. Trên đường đi, có một lần xe cô suýt rơi xuống vực ở đèo Ngoạn Mục. Ban tổ chức đã hoảng hốt lao đến hỏi có rút lui không? Lạnh lùng lắc đầu, cô cùng người thợ máy hì hụi cứu chiếc xe đã xìa một bánh xuống bờ vực, sau đó lên ôm vôlăng chạy tiếp! Dĩ nhiên, Mai đã đứng nhất phía nữ và trên không ít phái nam ở cuộc đua xe hơi đầu tiên tại VN ấy.

Cũng nhờ lần thử thách xe hơi này thành công, Như Mai xin và được giới thiệu đi học lái máy bay nhỏ. Cô đã từng điều khiển máy bay trên ba giờ liên tục, nhưng cuối cùng phải bỏ vì ông bà thân sinh sợ phải đi nhận tiền tuất!

Bà lão gần bát tuần ngồi trước mặt tôi cười lớn bảo: “Sự nghiệp thể thao của tôi chỉ còn thiếu mỗi bóng đá và quyền anh. Hai thứ đó thì tôi không dám đụng đến vì sợ vẹo mũi, xấu chết!”.

Mạnh mẽ, táo bạo, yêu thích khám phá những điều mới mẻ - đó là đặc tính của cô Như Mai. Bên cạnh đó, trong cô còn có tính cách của một người nghệ sĩ. Đã vậy, cô còn được má Bảy Phùng Há coi như con trong nhà (vì chơi thân với người con má là bà Lý Bửu Trân - tự Bửu Chánh), nên trong cô Mai luôn có chỗ rất lớn dành cho sân khấu, không kém thể thao. Nghiệp nghệ sĩ của cô thì các báo lĩnh vực sân khấu đã nói rất nhiều, khi cùng người bạn tri kỷ Kim Hoàng (một cô đào thương có tiếng của gánh Năm Phỉ lừng danh) lập nên Đoàn ca kịch Kim Hoàng - Như Mai một thời vang bóng.

Và ngay cả khi bước chân vào lĩnh vực nghệ thuật, cô Như Mai vẫn thể hiện mạnh mẽ lòng khao khát khám phá những chân trời mới. Như năm 1956, cô Như Mai được tham gia đoàn danh thủ bóng bàn VN đi thi đấu, biểu diễn tại Philippines. Trong chuyến đi này, cô đào thương Kim Hoàng cũng tháp tùng để biểu diễn văn nghệ. Sau đó, trong khi các danh thủ bóng bàn về nước thì hai cô gái trẻ tách đi sang Nhật.

Họ đã có những sô biểu diễn được hoan nghênh tại Tokyo. Có một điều rất thú vị, rất tự hào ở chuyến đi này là sau khi thu hình cả hai, đài truyền hình Nhật đã đưa họ một phong bì tiền dày cộp. Nhận xong, hôm sau cả hai tìm đến giao cho chủ bút tờ báo Mainichi Daily News là ông Tatsuo Shibata nhờ tặng Hội Chữ thập đỏ. Trên báo ấy ra ngày 9-8-1956 đã đăng tin này và ảnh của cả hai cô.

Cũng trong dịp đi Nhật, hai cô đã học vũ đạo Nhật Bản, và mười năm sau họ đoạt HCV đại nhạc hội tại miền Nam bằng điệu vũ này. Tờ Mainichi ngày 19-7-1966 cũng đã đăng tin này kèm theo hình ảnh của cả hai trong điệu múa “Sara Odori”. Người Nhật đã xem Như Mai - Kim Hoàng như những sứ giả bắc cầu nối tình giao hảo của hai nước Việt - Nhật.

Huy Tho

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |