Jump to content

Advertisements




TRUYỆN NGẮN


312 replies to this topic

#181 Đinh Văn Tân

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 7356 Bài viết:
  • 16937 thanks

Gửi vào 16/04/2021 - 02:08

Đại tá Nguyễn văn Dưỡng .

Thanked by 2 Members:

#182 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 19/04/2021 - 19:20

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·







HỎA XA VIỆT NAM TRƯỚC 1975

Người Mỹ hiện diện ở miền Nam 20 năm đã để lại một nền văn minh cơ giới, kỹ thuật tân kỳ và cách làm việc mau lẹ khoa học. Mỗi tỉnh mỗi thành phố và ngay cả thôn làng hẻo lánh người Mỹ để lại một phi trường để máy bay lên xuống.

Người Pháp thôn tính Việt Nam 100 năm cũng đã để lại một di sản khổng lồ, một nền văn hóa phong phú. Cả người Mỹ lẫn người Pháp còn để lại một phong cách “ga lăng” tôn trọng phụ nữ và yêu quý trẻ em.

Hệ thống Hỏa Xa Việt Nam là một kỳ công của “100 năm đô hộ giặc Tây”. Hệ thống đường sắt xuyên Việt này bắt đầu được xây dựng vào khoảng năm 1900. Cách đây hơn một thế kỷ.

Mỗi cây cầu mỗi nhà ga là một công trình khoa học kỹ thuật và nghệ thuật riêng biệt. Không cái nào giống cái nào. Trong khi phần đông người Việt bình dân khi ấy còn đi chân đất ở nhà tranh vách đất thì các tòa nhà và cầu sắt kiểu cọ này mang hình ảnh lãng mạn và thơ mộng của Âu Châu.

Như trụ sở của Ty Hỏa Xa Vân Nam tại Hà Nội lộng lẫy tráng lệ như một cung điện vua chúa bên trời Âu. Và nhà ga Qui Nhơn dù ở tỉnh nhỏ hẻo lánh nhưng có mái nhà vòm tròn màu trắng giống một công trình kiến trúc tân thời ở New York ở thế kỷ 20.

Các bạn kỹ sư chắc sẽ thích thú khi thấy cái cầu quay ở Hải Phòng. Mỗi khi có tàu thủy đi trên sông thì chắc phải hì hục quay bằng tay hay sao?

Cách thiết kế của cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa là một sáng tạo tuyệt vời cách đây 100 năm. Đây là cầu treo từ vòng cung phía trên.

Nhưng lý thú nhứt là thấy được cuộc sống của tiền nhân cách đây 1 thế kỷ. Những hành khách Việt Nam nghèo nên đi toa hạng tư, ngồi giữa đống hành lý ngổn ngang. Họ mặc Âu phục lẫn quốc phục rất lịch sự tươm tất. Chắc thời ấy phụ nữ An Nam chưa biết mốt khoe mông khoe dzú như bi giờ.

Người Pháp ngồi trong toa hàng ăn trên tuyến đường Xuyên Việt mặc áo vét thắt cà vạt. Nón cối thuộc địa máng trên móc. Mỗi "me-xừ" có một chai rượu vang bự chần dần uống để mà chết hay sao. Hèn gì người ta đặt tên cho mấy chả là “thực dân” ???

Nghe những người lớn tuổi kể lại rằng. Giặc Pháp rất quy cách và trang trọng. Họ thường tươi cười nhường cho đàn bà An Nam có con nít lên xe lửa trước. Ít khi nào thấy giặc Tây đánh đập và mày t*o thô tục với mấy bà đầm.

Đến thời đế quốc Hoa Kỳ ác ôn qua kìm kẹp miền Nam thì ngành Hỏa Xa Việt Nam đi xuống dốc. Cả Mỹ lẫn VNCH không có khả năng bảo vệ được các tuyến đường sắt đi qua những vùng mất an ninh. Hàng trăm chuyến xe lửa bị Việt Cộng đặt mìn nổ lật gây thương vong cho hàng ngàn người vô tội.

Đến thập niên 70 thì Hỏa Xa miền Nam ngưng hoạt động vì khủng bố Việt Cộng.

Tuy nhiên trong nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Hoa Kỳ có viện trợ cho ngành Hỏa Xa các đầu máy General Electric chạy bằng dầu diesel rất sạch sẽ, yên lặng, và đẹp. Đế quốc cũng viện trợ các toa chuyên chở dầu, nguyên liệu vật liệu rất tối tân.

Toa xe chở hàng của Mỹ viện trợ thường lớn hơn xe của Pháp nhưng chiều rộng của hai bánh xe phải sửa thu hẹp lại cho phù hợp với chiều rộng của đường rầy Việt Nam.

Xe lửa của Mỹ không xài cái cụng cổ điển nữa và không cần chui xuống móc 2 toa dính lại rồi siết bù lon bằng tay rất nguy hiểm, dẹp sọ dừa như chơi. Bộ phận cụng của xe Mỹ tự động khóa lại nên không mất nhiều thì giờ để ráp nối các toa xe lại với nhau.

Ngày hôm nay di tích và phong cách của hoạt động ngành Hỏa Xa Việt Nam trong thời kỳ “thực dân Tây và đế quốc Mỹ” đang phai mờ dần. Nhìn lại những hình ảnh lịch sử thấy quê hương Việt Nam ngày ấy hoang sơ và đẹp đẽ làm sao. Con người cũng lễ độ và tươm tất. Ngậm ngùi vì một dân tộc bách chiến đã đánh đuổi hai nền văn minh Mỹ và Pháp.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#183 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 19/04/2021 - 19:30

CHA TÔI CHẾT KHÔNG CẦN QUAN TÀI (Đào Nam Hoà)

Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.

Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!

Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.

Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.

Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.

Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…

Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!

Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.

Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.

Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)

Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic!

Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông!

Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.

Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.

Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.

Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.

Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần ng... q..., ng... q... nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.

Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.

10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.

Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:

-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.

Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:

– Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.

Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!

Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.

Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975!

Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại.

Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …”

Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:

Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối.

Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.

Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:

– Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!

Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.

Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!

Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!

Thanked by 3 Members:

#184 Hoa Cái

    Hội Viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPip
  • 5381 Bài viết:
  • 18600 thanks

Gửi vào 20/04/2021 - 06:25

Câu truyện bên trên về 1 người từng cầm súng, chỉ huy, bị tù đầy quá cảm động .

Còn loại chuyện phịa thêu dệt về cm thiệt giống như lũ dơi bay áo ào trong đệm tối !

2016, tôi cùng nàng Mèo về thăm VN (chuyến đầu của tôi là 2005).

Tặng từ thiện 500 đô, tên Nghĩa Hòa (nick trên FB) đút túi xong rồi nói với tôi "Các anh đừng tưởng về về đây xách động đòi lật đổ chính quyền VN . Cha ông chúng tôi đổ máu mới có được ngày hôm nay ". Rồi hắn quay sang bạn Việt Kiều của tôi còn trẻ (chừng 36t) rằng "anh muốn làm quen 1 cô trong nhóm của tôi không ?".

Tôi lặng người như có ai đấm vào mặt tôi mà tôi không chống trả được . Tôi nào dám nói tiếng gì chống đảng của tên nhìn thấy ngu đần và cực đoan . Sau này chính hắn lên án đám biểu tình Formosa là ph.... đ.... .

Tôi cũng yêu tổ quốc của tôi nhưng không phải loại đỉnh cao trí tuệ và loại khoe VN là nước hạnh phúc lắm !

Tại TVLS, tôi lên án Huy Gen là thứ khốn ra tay ban IP của tôi chỉ vì tôi thách chiến 1 VIP . Cũng là 1 loại lãnh đạo chẳng ra gì .

Cứ nhìn mấy chữ pha .. động và cs bị sửa đổi cho thấy lòng dạ của Admin .

Tôi thề nhất định không bao giờ viết 1 bài về học thuật và mỗi bài viết sau này chỉ nhắm vào Huy Gen cho đến khi nó ban IP và khóa nick tôi !

HC

Sửa bởi Hoa Cái: 20/04/2021 - 06:37


#185 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 21/04/2021 - 20:51

THĂM CHỒNG CẢI TẠO

Lòng tôi chùng xuống, không biết từ bao giờ tôi nghĩ tới ngày 30/04/75, ngày sóng gió của cả Miền Nam.

Tôi có bốn đứa con còn nhỏ lắm. Đứa con gái đẩu lòng hơn sáu tuổi và con trai út vừa tròn một năm. S. bị tập trung cải tạo trên rừng sâu... Những địa danh xa lạ của vùng rừng núi cao nguyên Trung Phần.

Đồng hồ đánh thức từ 3h sáng. Tối hôm qua phải thức khuya chuẩn bị đủ thứ, xếp các thức ăn vào giỏ... để sáng hôm nay lên đường sớm: Đi thăm chồng.

Tôi đi, các con còn đang ngủ say nên không nói được với con lời nào. Tôi nhờ một người láng giềng tốt bụng chăm sóc các cháu. Tôi vắng nhà chỉ một ngày một đêm mà sao lòng tôi lo lắng khôn nguôi .

Chúng tôi tập hợp tại ngã tư đường Yên Đỗ từ 5h sáng mà gần 8h xe mới bắt dầu rời thành phố về hướng Phước Long, Bình Long, Sông Bé...

Xe chạy qua nhiều đám khoai mì, chạy qua những đám ruộng khô cằn, những mái tranh rách nát, bên những rẫy bắp cành lá xác xơ... nắng cháy... Vùng Kinh Tế Mới!

Đến chiều, xe đã tới vùng rừng núi Phước Long, chạy quanh co trong rừng già, càng lên cao, càng chậm, như con Bọ Hung bò qua dốc! Đường vào trại thăm nuôi lầy lội, chắc là tối hôm qua đã có một trận mưa rừng lớn lắm.

Cái dốc đứng cao và dài... Những giỏ đồ ăn thăm nuôi được để trong xe, chúng tôi vén quần thật cao, một tay xách dép, tay kia níu chặt mấy nhánh lồ ô chìa ra hai bên đường lần từng bước nhỏ. Bùn quánh qua ống chân . Mồ hôi nhễ nhại... Vì sợ trợt tôi bò lên dốc. Nhìn lên phía trước, các chị bạn cũng đang bò...! Trông giống một đàn "kiến càng" bò lên dốc... Ý nghĩ ngộ nghĩnh khiến tôi bật cười một mình! Lại thầm nghĩ: chắc ông xã mình đang tưởng tượng ra cảnh này và đang đợi từng giờ , tự nhiên thấy hết mệt...

Khoảng bốn giờ chiều thì chúng tôi tới nơi. Rừng trên cao nên rừng âm u tối. Những con muỗi rừng bay lượn từng đàn, cánh dài bụng bự vây quanh chúng tôi ! Có lẽ người dân Sài Gòn vẫn còn thơm mùi thành phố dù họ đã nếm đủ mùi vị đắng cay từ khi xuất hiện lá Cờ Đỏ Sao Vàng trên mảnh đất Miền Nam !

Mặt trời trốn sau những rặng tre già, gió rừng lạnh buốt trên vai. tôi rùng mình nhìn quanh... Rừng lồ ô và những người vợ trẻ đi thăm chồng!

Vài người bộ đội đi qua... mặt lạnh như rừng già. Họ thật xa lạ... Nơi đây không còn tìm thấy bóng dáng những khuôn mặt miền Nam hiền hoà năm trước...

Màn đêm bao trùm thật dễ sợ, lưa thưa vài dãy lều tranh và những ngọn đèn
dầu mù u hắt hiu vàng úa. Chung quanh tôi là những người vợ trẻ đến từ đâu không ai hỏi nhưng chúng tôi cùng hoàn cảnh và tâm trạng giống nhau nên thân thiện như quen thân từ lâu lắm.

Chúng tôi ngồi chung trong một cái lán làm bẳng nẹp tre rừng. Hai người bạn khá thân: chị Nguyễn Văn Tường, chị Vĩnh Thuế và tôi. Chúng tôi ngồi chụm lưng vào nhau cho đỡ sợ! Dưới bóng đèn dầu mờ mờ, chị Tường ngồi quấn lại mấy lọn tóc. Chị làm đẹp để sáng hôm sau gặp anh Tường.

Trên vách, hai con rắn đầu đỏ đang hả miệng nhìn chúng tôi. Chúng tôi ngồi co vào nhau, nhắm mắt... May mắn có một chị nói đó là rắn Mái Gầm. Nó chỉ rình để ăn vụng thực phẩm của tù nhân. Chúng tôi ngồi đó, lưng dựa vào nhau, bên cạnh mấy giỏ đồ ăn để trong mùng chờ trời sáng. Hai con rắn vẫn nhìn chúng tôi không rời.

Sáng hôm sau, mỗi đứa thay cho mình một cái áo tốt hơn ... Để dấu nét âu lo của mình, tôi tô lên môi một chút son hồng. Mấy phút nữa tôi sẽ được gặp chồng, người tôi thương nhớ.

Thời gian chờ đợi nơi đây như dài gấp bao ngàn lần khi mình chưa đặt chân đến. Gần trưa, chúng tôi đươc gặp người thân của mình. Mỗi gia đình thăm nuôi ngồi một góc nhỏ, cạnh nhau vài mét, trên một lán làm bằng tre rừng...

Những chiếc nón lá làm mái che cho những nụ hôn thương nhớ. Đồ ăn bày ra trước mặt nhưng hình như chắng ai đói... Tôi nhìn Bs Tường và Bs Vĩnh Thuế. Các anh bơ phờ, áo quẩn nát nhàu vì năm tháng lao động tay chân. Nhìn lại chồng mình... ngậm ngùi muốn khóc...!

Vài món ăn mang ra rồi cất vào giỏ, chẳng ai muốn ăn mặc dù họ đang rất đói....
Bốn tiếng đồng hồ thăm nuôi trôi qua rất nhanh... Và mấy tiếng leng keng báo hểt giờ... Tôi vội vàng xếp thức ăn vào giỏ cho chồng... Thuốc nhức đầu, tiêu chảy, mấy ký đường cục, vài bao bột ngủ cốc, một ký tôm khô, một bịch mắn ruốc xào thịt ba chỉ với sả ớt, bộ quần áo...

Vài người bộ đội đi đi lại lại thúc dục hết giờ thăm nuôi!

Chúng tôi bịn rịn chia tay. Người đi vào trại cúi mặt bước nhanh , thình thoảng gắng quay đầu nhìn lại... Người ra về nhìn theo một lần nữa người thân yêu của mình... Rừng chiều cũng lạnh lùng ngoảnh mặt.

Để tránh con đường lầy lội hôm trước, bác tài đưa chúng tôi ra về theo một hướng khác... Đi quanh quẩn trong rừng rất lâu... Mặt trời bắt đầu trốn sau rừng tre già từ từ chìm trong bóng tối .

Chúng tôi đi sát vào nhau... Sợ lắm. Một nhóm phụ nữ trẻ chưa một lần nào nếm trải trong rừng đêm. Không biết con gì sẽ tấn công?

Người dẫn đường bật cái đèn pin bé tí, ánh sáng yếu ớt không đủ thấy mặt nhau. Chúng tôi loanh quanh trong rừng già. Bóng đêm bao trùm mọi nẻo... Để trấn an nỗi lo âu trong lòng mình, chị bạn đi bên tôi khôi hài: Chúng ta là đoàn người đi tìm vàng... (Vàng và Máu của Thể Lữ). Xơ xác mệt nhoài.

Sau hai giờ trôi qua trong rừng tre già, người dẫn đường cũng tìm được hướng ra... Chúng tôi vừa lên xe chưa bao lâu thì rừng đêm cũng chập chùng mưa gió. Tiếng sấm sét, gió rít, nước chảy, mưa rơi... Những nhánh tre rừng nghiêng ngã đập mạnh hai bên chỗ ngồi. Chúng tôi lắc lư theo nhịp di chuyển của chiếc xe đò.

Quanh co, băng rừng, qua suối... lòng tôi cũng đang mưa gió như ngoài trời .

Chị Tường đưa cặp mắt ướt lệ nhìn tôi! Chị cũng là một cô giáo đã bị thôi việc từ ngày 30/04 . Chị buôn bán chợ trời nuôi đàn con thơ 5 đứa mà đứa lớn nhất vừa tròn 8 tuổi.

Tôi bắt đầu lo sợ, sợ bác tài lạc hướng... sợ xe lăn xuống hố...Trong đẩu tôi hiện lên hình ảnh cô em gái đẩu quấn băng sau khi xuất viện mới cho tôi hay là bị xe lật trên đường đi thăm chồng cãi tạo ở Hà Nam Ninh về...

Xe cứ lắc lư, chao đảo giữa bóng đêm mịt mùng. Xe chạy gần qua hết một đêm dài mà không tìm thấy hướng ra quốc lộ... Đêm nay, nếu tôi có bề nào không bao giờ về được nữa , thì ai nuôi bốn đứa con thơ đang chờ mẹ ở nhà! Ông bà ngoại mất lâu rồi, anh em tôi đông , nhưng ly tán và tan nát từng mảnh đời sau biến cố 30/04!

Những lo sợ không chịu rời bỏ tôi một phút giây nào. Tôi cố nắm chặt hai bàn tay mình lại hít một hơi thật dài. Tôi khom người đứng lên, cố gắng làm một động tác nào đó cho vơi đi nỗi lo sợ trong lòng mình nhưng tôi đã khóc lúc nào không biết... Xe vẫn chạy... Tôi nhắm mắt, cứ để cho giòng lệ của mình hoà theo những giọt nước mưa .

Qua một đêm kinh hoàng, xe về tới bên kia cầu Sài Gòn. Bác tài cho chúng tôi xuống xe ngồi lại bên lề đường chờ cầu Sài Gòn mở cửa. Tôi thở phào nhẹ nhỏm như vừa trút được một gánh nặng ngàn cân.

Ôi! Một chuyến đi... thăm chồng.
(Kim Thoa)

Thanked by 2 Members:

#186 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 22/04/2021 - 19:58

Tháng 4 gợi nhớ!
Chuyến xe lửa được “cất” 46 năm!

Đã gần 46 năm mình nghĩ đã quên hết những chuyện đau buồn mà mình đã đi qua. Nhưng đã là chuyện đau buồn thì có mấy ai thật sự dễ dàng để mà quên, và mình cũng không ngoại lệ vì chẳng qua chúng ta cất dấu nó quá kỹ bằng cách đi tìm những điều tốt đẹp hơn để chôn lấp nó mà thôi.

Với mình ngay lúc này những giông gió trong cuộc sống không còn đủ sức cuốn mình vào quỹ đạo để mình phải gục ngã. Nhưng chỉ có tháng 4 của mỗi năm nó luôn khơi lại vết thương, không phải vết thương nào cũng chảy máu, và cũng không phải không chảy máu là nó không đau.

1975, gần 46 năm về trước, sau trận nổ kho đạn ở khu căn cứ Long Khánh, nơi có một số Sĩ Quan VNCH bị nhốt ở đó dưới cái danh gọi là “học tập cải tạo”, K (ba của con gái mình) cùng các anh Sĩ Quan khác được chuyển trại về căn cứ Long Giao. Trong lần nổ kho đạn ở Long Khánh đó K rất may mắn nếu không nhờ người bạn từ xa gọi để anh quay mặt đi thì anh đã bị một miếng kim loại từ xa bay tới cắt đứt hết hoàn toàn phần trước mặt của anh, sự may mắn đó để lại cho anh vết thương bên mép miệng phải vá sống hơn mấy chục mũi kim vì không có thuốc tê - sau này mỗi khi anh cười cái miệng của anh bị méo qua một bên. Ngay lúc đó các anh bạn đứng chung quanh anh nghĩ rằng anh đã chết, vì máu ra ướt hết cả phần trên người của anh khi anh quỵ xuống. Nhưng anh vẫn còn may mắn hơn một anh Sĩ Quan khác tên P, anh P bị thương nát hết một bên chân. Trong số các anh Sĩ Quan bị nhốt có nhiều anh là bác sĩ quân y, họ quyết định mổ cắt bỏ đi phần chân bị thương từ dưới đầu gối của anh P, vì không có dụng cụ y khoa, như thuốc mê hay thuốc gây tê và dao kéo kim chỉ để khâu lại vết mổ, v.v., mấy anh bs để anh P lên bàn dùng cái mùng chụp lên để che đi phần nào vi trùng bám vào vết thương, mấy anh bs vận dụng mọi thứ sắc bén để khi cắt phần chân bỏ đi nhanh nhất có thể, và diệt trùng bằng cách bỏ tất cả dao kéo kim chỉ vào nồi nước nấu cho sôi, thay cho thuốc mê bs dùng khăn cho vào miệng của anh P và cột hết chân tay của anh P vào chân bàn, và an ủi khích lệ anh P có niềm tin để chịu đựng. Vì kim chỉ chỉ để may trên vải do có mấy anh mang theo, bỏ vô nồi nấu để sát trùng nên nó bị rối lại, các anh phải mất thêm thì giờ để gỡ nó ra, lúc này anh P vì quá đau đớn nên đã ngất lịm đi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

Và thêm một lần nữa anh P không may mắn vì vết thương của anh bị nhiễm trùng, anh phải bị thêm một lần nữa cắt bỏ hết phần đùi của cái chân bị thương. Nếu các anh SQVNCH nào bị nhốt ở Long Khánh rồi chuyển qua Long Giao vào thời điểm đó thì không thể nào quên được tiếng thét của anh P qua hai lần cưa chân mà không có thuốc mê. Nhờ tất cả các anh có mang theo thuốc trụ sinh phòng bị cho mình, các anh gom góp lại để cho anh P uống sau khi tỉnh lại, và chắc nhờ anh P chưa tới số nên anh từ từ anh khỏe lại sau lần mổ thứ nhì!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



**Tất cả câu chuyện của anh P mình biết được là do K và các bạn ở tù chung mỗi khi gặp nhau đều nhắc lại. Và mình cũng được biết vợ anh P ở ngoài (chị không biết mình), chị là người phụ nữ rất đẹp tên của chị là H**

K có người anh bà con gọi má anh bằng cô ruột, anh họ hàng đó là bộ đội có chức vụ cũng kha khá. Từ Miền Bắc vào Saigon thăm gia đình của K, má K nhờ anh tìm cách đưa bà đi thăm K và một người em trai của K cùng bị nhốt chung trại với K. Biết được tin người anh bà con xin được giấy phép đi thăm nuôi cả nhà K và mình vui mừng không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng cấp trên của người anh họ cho phép gặp chỉ có một người bị nhốt mà thôi, vì K có thêm một người em trai Sĩ Quan nữa bị nhốt chung. Cả gia đình bàn bạc là chọn đi gặp K, và mình được má K cho phép mình ẵm con gái mình cùng đi theo. Trong lúc này mình và người chị bà con của K đã ra bán chợ trời nên cũng có chút đỉnh tiền mỗi ngày về đưa cho má K coi như đóng góp phần ăn ở của hai mẹ con mình.

Má của K nấu ăn rất khéo và rất ngon, nhất là những món ăn của Miền Bắc. Trước mấy ngày đi thăm K, trong nhà như có tiệc, ai cũng một tay một chân phụ vào lo nấu nướng để mang cho 2 anh em K. Nếu mình nhớ không lầm thì tất cả thức ăn ngày đó mang đi phải hơn 100 ký lô gồm những món thật mặn và thật ngọt cùng thuốc lá.

Tâm trạng của mình lúc này vô cùng hỗn loạn - mừng gặp được K và hồi hộp vì muốn K ở trước mặt má của K nói rõ và quyết định về thân phận của hai mẹ con mình. Vì khi K mang hai mẹ con mình về gia đình K chỉ nói với cả nhà cho mình ở tạm, để K đi trình diện 10 ngày sau K về sẽ đưa hai mẹ con mình về quê ngoại của mình sinh sống.

Chuyến đi gồm có má của K, người anh họ đứng đơn bảo lãnh, và hai mẹ con của mình. Phương tiện đoạn đầu tiên từ Saigon tới Long Khánh chúng mình đi bằng xe lửa và đi vào lúc tối, ông anh họ thì ngủ suốt trong chuyến đi, riêng má của K và mình không thể nào ngủ được, nhưng không ai nói chuyện với ai vì trong lòng của mỗi người đang theo đuổi một “nỗi niềm” riêng. Tất cả xuống xe lửa ở trạm Long Khánh lúc trời vừa sáng, và từ LK chúng tôi đi bằng xe đò để tới Long Giao, dân địa phương ở đây họ nhìn chúng tôi họ biết ngay là đi thăm tù SQVNCH. Trên đường đi ngang qua nhà lòng chợ LK, mình nhìn thấy một đống bao nhỏ lớn đủ cỡ chất chồng lên nhau như một đống rơm ở nhà quê sau mùa gặt lúa, cùng lúc người tài xế lái xe lên tiếng và chỉ về hướng những gói đồ và nói: “đồ ăn của gia đình mấy anh Sĩ Quan gửi tới, vì ở tại đây vẫn còn một số Sĩ Quan chưa chuyển đi nơi khác.” Tự nhiên mình và má của K nhìn những bao thức ăn đó nước mắt cứ tuôn ra không ngớt.

Trong thời gian đi bán chợ trời tiền lời có bao nhiêu về mình đưa cho má K vì gđ đã cưu mang hai mẹ con mình, chị bà con của K khuyên mình nên giữ một ít tiền trong người phòng khi có chuyện cần dùng, nên mình có một ít tiền riêng, trên đường đi vô Long Giao mình đưa cho má K. Khi đưa mình gập ngừng gọi tiếng má trong họng phát ra không rõ vì trước đó mình gọi bà bằng bác: “...á.. cầm tiền này chút vô gặp anh K đưa cho anh bỏ túi.”

Từ chỗ xe đò bỏ chúng tôi xuống đi vô tới cửa trại cũng hơi xa, chúng tôi phải đi bằng xe honda ôm, 3 chiếc chở 3 người còn 1 chiếc chở 2 bao thức ăn. Vô tới cổng mình chỉ nhìn thấy phiá bên tay trái có một cái nhà nhỏ toàn bằng lá, mình nhìn thẳng vào sau cổng trại ngoài rừng cây ra mình không thấy nhà hay một bóng người nào hết. Chúng tôi còn đang đứng lóng ngóng thì thấy có một chiếc xe honda 67 từ bên trong cổng chạy ra - cả 2 người đều mặc đồ bộ đội mặt lạnh như tiền. Một người nhảy xuống xe nhìn ông anh họ K chào nói: “chào đồng chí”, và ông anh họ chào lại cũng nói lời y như vậy. Người bộ đội mời chúng tôi vô trong cái nhà lá nhỏ, bên trong nhà chỉ có 1 cái bàn và 4 cái ghế. Ông anh họ mời má K ngồi và anh ngồi kế bên, anh chỉ cái ghế đối diện kêu mình ngồi trên đó. Khi mình định ngồi xuống thì lại nghe tiếng máy xe honda nữa ngừng bên hông nhà, một cán bộ đi trước K đi theo sao với hai tay bị còng. Người cán bộ lại chào người anh họ có vẻ rất kính trọng (sau này mình mới biết ông anh đó làm chức vụ rất lớn trong bộ đội) người cán bộ kề tai nói nhỏ gì với ông anh họ mà anh ấy cứ gật đầu lia lịa (gần như chúng tôi là gđ đầu tiên được đi thăm thân nhân bị nhốt nơi đây).

K được cán bộ mở khoá còng tay ra ngồi xuống ghế theo chỉ dẫn của cán bộ, và người cán bộ đó ngồi cạnh bên K với cái ghế còn lại, nên mình ẵm con đứng dựa vô vách lá sau lưng của má K, đến đây chúng tôi mới biết K bị thương ở mặt vì vết thương vẫn còn đỏ với nhiều dấu kim may để lại, làm cho một bên mặt phải của anh bị trệ xuống. Má K nhìn K không nói được nên lời, bà cứ khóc có lúc thành tiếng có lúc im lặng nhưng thân thể của bà run rẩy lên từng chập, còn riêng mình đứng yên một chỗ toàn thân như đã chết chỉ còn đôi mắt và tuyến nước mắt còn hoạt động nên nó cứ tuôn ra và tuôn ra. K thì cố gượng cười nhìn má anh và nói, “con và T khoẻ lắm má đừng lo.” Vì vết thẹo dài còn mới khi anh nhách mép nói hay gượng cười với cặp mắt lưng tròng nhìn mặt của anh rất thê thảm, chỉ có ông anh họ là bình tĩnh cười nói khuyên răn K nên chấp hành hết những gì trong trại đưa ra rồi sẽ được mau về nhà thôi. Thỉnh thoảng K liếc nhìn mình, thời gian gặp K chỉ được có 1 tiếng đồng hồ, đến khi má K bình tĩnh hết khóc thì giờ còn lại chỉ có 20 phút, vì bà quá sợ nên bà muốn người anh họ luôn ngồi kế bên bà để nói chuyện gửi gắm 2 anh em của K với người cán bộ. Ông anh họ sực nhớ tới mình, ông đứng dậy nói: “này này, cái V ẵm con tới đây cho ba nó trông mặt mũi con gái được bao lớn rồi. Mình muốn xỉu vì mừng và vì quá mỏi tay, mình ngồi xuống thì má K nói liền với K, “thôi con để cho hai mẹ con nó ở lại nhà mình chờ đến lúc con về rồi hãy tính.” K nhìn mình như muốn hỏi mình ở nhà K có ổn không? Ở hoàn cảnh này mình làm sao nói hết những gì mình muốn nói, trước mặt má K với mọi người và thời gian còn lại quá ít ỏi, mình ấp úng nói ra câu không đâu vào đâu: “anh còn ở đây lâu lắm hả?” K chỉ kịp nắm tay con gái dùng ngón tay cái xoa xoa trên lên bàn tay con và kéo tay con gái lại hôn nhẹ rồi bỏ xuống liền, cùng một lúc K lấy chân khều khều bàn chân của mình rồi tất cả mọi người đứng lên, trong lúc đứng lên K chồm tới gần mình và nói: “tuỳ em muốn ở đâu cũng được.”

Lúc chuẩn bị đi ai cũng hăng say nôn nóng đến ngày được gặp mặt người thương, khi trở về thì má K và mình thân xác rã rời đau buồn suy nghĩ không biết đến bao giờ mới được gặp lại K. Mình không thể nào diễn tả hết nỗi lòng xót xa trong lúc này, má K vì khóc nhiều cộng thêm cái mệt của 2 chuyến xe và xe honda ôm nên khi lên xe lửa trở về lại Saigon bà đã ngủ say.

Con gái của mình có cái đặc biệt là từ lúc sanh cháu ra tới lớn cháu rất ít khóc, khi còn nhỏ dù cho cháu có khó chịu hay đói bụng thì chỉ có cựa quậy chút chút rồi thôi. Mình dù đã quá mệt cũng không tài nào ngủ được, ngồi ôm con nhìn ra cửa sổ trên xe lửa lòng vẫn còn vương vấn tiếc nuối giữ trong lòng những điều muốn nói với K mà không nói được. Thỉnh thoảng tiếng kèn của xe lửa vang lên cộng thêm có lúc tàu như ngừng lại rồi lại chuyển bánh chạy đi, tiếng bánh xe bằng sắt chạm vào đường rầy cũng bằng sắt mình nghe những tiếng động này thật hãi hùng, nó như xé rách bầu trời trong đêm, và như ánh trăng biết mình đang cô đơn và lo sợ khi nghĩ về tương lai nên cứ chạy theo mình qua khung cửa sổ. Không lâu sau ánh trăng bị mây đen che khuất báo hiệu trời sắp mưa, mình thấy thấp thoáng vài ánh đèn vàng leo lét và cơn mưa đã đến, lúc này mình mới cảm thấy lạnh và sự cô đơn càng thêm giá buốt, và để quên đi cái lạnh, mình ước ao sau này mình cùng K ngồi trên chiếc xe lửa như thế này đi thật xa để mình mới có đủ thì giờ kể cho K nghe nỗi niềm trong lòng mình kể từ khi xa K. Lúc này mình chưa đầy 20 tuổi.

Sau chuyến đi thăm K về, ba má của K kỳ vọng là 2 anh em K được thả về nhà sớm, nhưng gần 1 tháng sau ở nhà nghe tin K bị đưa đi ra Miền Bắc Cao Bằng Lăng Sơn. Cả gđ của K và mình chỉ biết khóc mà thôi.

Thế là từ đó mình vẫn tiếp tục ra chợ trời mua bán. Một thời gian sau mình nghe tin má của mình ở quê bị bệnh ung thư, mình phải phụ má nuôi 8 đứa em, và lo thuốc men cho má. Ba dượng của mình cũng bị đi tù cho nên mình thường đi về quê để lo cho má mình và lo cho các em. Và để nhất cử lưỡng tiện mình mang hàng 2 chiều từ quê lên Saigon và từ Saigon về quê bán. Mình bán đủ loại hàng, thị trường cần gì mình mua và bán cái đó. Có những chuyến từ quê mình mang lên Saigon là thịt heo, vì là hàng lậu nên mình dấu bằng cách cột chắc vô bụng giả như mình đang mang bầu vậy.

Sau khi K bị đưa ra Miền Bắc má của K được đi thăm K trong chuyến bà về thăm lại quê và bà con ở ngoài đó. mình không có đi ra Bắc thăm K lần nào vì phải tốn tiền nhiều lắm. Trong thời điểm của những năm sau 1975 đa số ai cũng khốn đốn, những người có tiền thì ngày đêm họ tìm đường đi vượt biên, riêng mình đã không tiền còn phải gồng gánh cho gđ của mình, mười miệng ăn và còn thêm thuốc men cho má của mình.

Cho đến hôm nay mình vẫn còn tồn tại sau thời gian dài của năm tháng, với sức khỏe và tinh thần bị bào mòn mệt mỏi, nhưng mình luôn cảm thấy nhẹ nhàng vì mình đã sống trọn vẹn và ý nghĩa của một kiếp người.
Mình chỉ cầu mong cho mọi người hãy sống tử tế với nhau, nếu không thương nhau cũng đừng có ghét nhau, đừng hại nhau, đừng làm tổn thương nhau...


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#187 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 26/04/2021 - 19:29

SỐ PHẬN VÀ NHỮNG CHẶNG XE NGHIỆT NGÃ!
Tập 1:

Ngày này cách đây 45 năm, từ Long Xuyên tôi nhận được điện tín từ Tỉnh Tân An của K gửi về “Em thu xếp nhờ ai đưa em và con lên đây gấp!”
Lúc này mình vừa mới sanh con gái được 2 tháng. Nhà không có ai ngoài ÔB ngoại của mình (mình ở với ÔB sau khi Má mình tái giá lúc mình được 6t).
Bà ngoại mình nói, “ngoại nghe mấy người ngoài chợ đồn ở Miền ngoài lộn xộn dữ lắm... có chỗ không còn của lính mình nữa đó... bây nhắm có đi được không thì ngoại đưa 2 mẹ con bây đi lên trển ở với ba nó, nếu không đi rủi có chuyện gì nó rày bây mất công” mình trả lời, “vậy ngoại đưa con đi rồi ngoại ở trển với con thời gian ngoại hãy về được không?”

Hôm sau 3 bà cháu ra bến xe mua vé đi lên Quận Rạch Kiến Tỉnh Tân An chỗ của K đang làm việc. Phải đi 3 chặn xe mới được tới nơi.

<Trích ngang lý lịch của K và mình tí xíu...>

** Ba Má K là người Miền Bắc, ông bà rời quê năm sau 1935 (mình không nhớ rõ.) K được sanh ra vào năm 1946 tại Saigon. Là con thứ năm trong một gia đình khá giả. Cũng là dân Cậu... nên bạn K gọi K là Cậu 5 Đen, vì da của anh đen nhất nhà.
Sau khi K ra trường Sĩ Quan Thủ Đức được thuyên chuyển về Quận Phong Phú Tỉnh Phong Dinh làm phó ban 5 (CTCT). Cùng chung chỗ làm với Ba dượng của mình, càng thân hơn khi văn phòng của K sát bên căn phòng của Ba Má mình (khu gia binh trong Chi Khu). Má mình thấy K độc thân hiền lành hay mời K tới nhà dùng cơm. Mỗi lần mình từ Long Xuyên xuống Má mình lấy tiền “hằng tháng” hay gặp K ở đây mình gọi K bằng “Chú” lúc đó mình 12t.

Sau 6 năm K làm việc ở đây mọi người ai cũng yêu mến K, hơn nữa K là Huynh Trưởng trong Hướng Đạo Quân Đội, nhiều thiếu nữ xinh đẹp thầm lặng yêu thích K, các chị không ngại tới chỗ K ở khóc lóc tỏ tình nhưng K luôn tìm cách từ chối khéo. Một hôm K đến nhà gặp Má mình nói, “Bà hai ơi, tôi đã xin đổi về Tân An cho gần Saigon và gần gđ vì tôi ở đây cũng đã khá lâu... tôi xin bà cho V đi cùng tôi... nếu không có V đi cùng chắc tôi đào ngũ qúa. Tôi hứa sẽ tìm cách cho V đi học tiếp tục ở Saigon.”
Trong thời gian K làm việc chung với ba dượng của mình K chứng kiến biết bao nghiệt ngã xót xa và vài trận đòn sống dở chết dở mà ba dượng mình đánh mình, (có lẽ từ đó K muốn cứu giúp mình cho Má mình bớt gánh nặng phần nào??)
Và mình đã đi cùng K với trận mưa đưa tiễn bằng nước mắt của 2 má con mình! **

Mẹ con mình và ngoại lên tới nơi được K ra đón về phòng, nhưng không phải phòng của chúng mình ở khi mình và K mới tới trước đây (mình về Long Xuyên ở với ngoại ở để sanh con). Nó được rộng hơn và có phòng khách. Khu dành riêng cho sĩ quan. Về đây Anh làm trưởng ban 5 CTCT.
Sáng hôm sau mình thấy có anh lính cận vệ của Thiếu Tá chỉ Huy Trưởng kim Quận Trưởng tới nói, “Thiếu Tá mời Trung Úy lên văn phòng Thiếu Tá cần nói chuyện.)
1 giờ sau K về nói thôi để cho ngoại về lại Long Xuyên. Ngoại vừa mừng vừa lo vì mình mới sanh còn rất yếu. 2 giờ sau có tài xế riêng của Bà Quận Trưởng đến đón ngoại mình ra bến xe về Long Xuyên, và đã có người ở đó mua vé xe cho ngoại mình đợi sẵn.

Ở mỗi chi khu có 5 ban từ 1-5. Tất cả Trưởng ban đều là Sĩ Quan cấp bậc Trung Uý tới Đại Uý. Ai cũng có gđ. Mình thân với vợ của Ông Trưởng ban 4, vì chị lớn hơn mình có vài tuổi. Toàn bộ đều là dân Saigon, trừ ra vợ chồng ông Trưởng ban 1 là dân địa phương.
Anh Chị TB 4 nhận con gái mình làm con đỡ đầu và đặt tên là Bé Ty. Chị ấy cũng đang mang thai đứa con đầu lòng được 5 tháng.
Ở được gần 2 tuần mình thấy không khí bất thường - K hay về khuya, dù rằng văn phòng làm việc của K cách chỗ ở của tụi mình chỉ hơn 100m.
5 ngày sau vợ anh Ban 4 đến thăm mình và hỏi, “anh K có nói với V gì chưa?” Mình ngơ ngác nhìn chị trả lời, “tôi không nghe nói gì hết.” Chị nói Ông Quận Trưởng đã đưa vợ con về Saigon hết rồi. Tất cả vợ con của các Sĩ Quan ngày mai cũng phải đi hết, chỉ còn đàn ông ở lại trong Quận và có lệnh giới nghiêm 24/24.

Đúng như những gì chị ấy nói, tất cả phụ nữ và con nít đều đi hết, chỉ còn lại có 2 mẹ con của mình và các anh Trưởng Ban và lính ở trong Chị Khu mà thôi. Mình thấy K rất buồn, đêm đầu tiên khi các vợ và con lính đi hết K về nhà sớm hơn mọi khi. Đêm đó K nói mình pha cho K ly càfe, mình ngạc nhiên chưa kịp hỏi thì K đã nói tiếp, “đằng nào Anh cũng không ngủ đuợc, pha cho Anh đậm chút.”
Cả đêm đó tụi mình không ngủ, 2 đứa cứ trằn trọc mình ngồi dậy hỏi K “có chuyện gì sao Anh không nói cho em biết?” Lúc này K mới nói, “có lẽ là mình bị mất Nước rồi em ơi!” Anh ôm mình khóc như mưa mà trong đời mình chưa bao giờ thấy đàn ông nào khóc nhiều như vậy.

Ngày lại qua ngày... trong Chi Khu im lặng một cách đáng sợ. Trong lòng mình sợ lắm nhưng không dám nói ra, suy nghĩ mình rồi đây sẽ ra sao...sẽ đi về đâu...? Tối ngày 29-4-1975 mình thấy lính ít hơn mọi khi. Tất cả Sĩ Quan và Quận Trưởng còn lại đầy đủ. Đêm đó tới 2g sáng K mới về.

Ngày *ĐỊNH MỆNH!* nửa khuya ngày 29-4-1975 vừa bước qua ngày 30-4-1975 K về tắm rửa thay bộ đồ Quân phục 4 túi mới toanh, lúc này K nói pha cho K cafe gấp đôi bình thường. Mình hỏi K “Anh mới về không nghỉ ngơi mà lại mặc đồ nghiêm chỉnh bộ anh sắp đi đâu sao? em chỉ còn có mấy chục đồng trong túi thôi, nếu anh có đi đâu cần xài tiền thì làm sao bây giờ?” (đã cuối tháng mà chưa được lãnh lương).K đứng trước mặt mình 2 bàn tay K nắm chặt đôi vai của mình cố nén không khóc nhưng giọng nói của K nghẹn ngào “Anh đi lên Saigon ngay bây giờ, để đón Bà Quận Trưởng và các con của ÔB trở lại đây, em yên tâm ở lại. Thiếu Tá bên cạnh Ông ấy sẽ lo cho em nếu có chuyện gì.”

3g30 sáng K lên xe Jeep của ông Quận Trưởng có cái đèn đỏ và còi hụ. Mình như người mất hồn... không biết làm gì, linh tính như mách bảo có chuyện chẳng lành, mình vội lấy mấy bình sửa, hộp sửa, tã, ít quần áo cho con mình bỏ vào cái túi sách mình nghe tiếng chân người chạy qua lại liên tục trước sân cửa phòng mình. Mãi lo thu xếp khi nghe tiếng khóc của con mình mình mới biết trời đã sáng. Như mọi ngày cho con tắm, bú sửa, xong nhìn đồng hồ đã 8g.

Ông QT đứng trước phòng mình mặt Ông thật buồn gọi mình nói, “chút nữa có xe nhà binh chở thím ra Bình Điền thím đón xe về Saigon tới nhà của tôi sẽ gặp chú K ở đó.” Ông đã viết sẵn địa chỉ trao cho mình. Ông quay lưng bước đi để lại trong mình sự sợ hãi tột cùng của một thiếu nữ chưa tròn 19t cùng một sinh linh hơn 2 tháng tuổi, với bao sống gió chờ đón trong những ngày sắp tới...



PV: t4

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


-----------

Tập 2:

Người cuối cùng thân quen tôi được gặp là Ông Trưởng Ban 4 và cũng là ba đỡ đầu của con gái mình. Anh không mặc quân phục như mọi khi mà chỉ mặc quần tây áo sơmi thường - anh đến phòng nơi chúng mình ở đưa cho mình cái bình thủy và cái mền mỏng nhà binh, “Anh nói em giữ mấy cái này dùng cho bé Ty, chút nữa có người tới đây đón hai mẹ con em đi, đi đường phải cẩn thận đừng nói chuyện và không nói với ai mình là vợ lính SQ”. Anh lại quay lưng đi... 2 chân của mình gần như không còn đứng vững được nữa

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tiếng khóc của con tôi và tiếng máy xe GMC ngừng trước sân làm mình tĩnh lại. Một anh lính tài xế bước tới cửa phòng mình la lớn “ai đi Bình Điền lẹ lẹ ra xe nha!” Mình quơ vội lấy túi đồ, cái mền, và cái bình thủy của Anh Ban 4 vừa đưa bước vội ra xe. Mình ngồi băng trước với tài xế.Trên đường đi mình thấy Quân Phục của lính và súng bỏ nằm 2 bên đường thật nhiều. Đi một lúc có một nhóm người toàn là đàn ông ăn mặc xốc xếch ra hiệu cho xe ngừng lại. Tài xế vừa đạp thắng vừa nói, “chắc Sư Đoàn 18 BB đây.” Anh ngừng xe lại hỏi, mấy huynh muốn đi đâu?
Một anh trong đoàn trả lời, cho ra đường lớn đi... anh tài xế trả lời tôi cũng đi ra hướng đó, nhưng tình hình này đi tới đâu hay tới đó nha mấy huynh.

Thời gian ngồi trên xe vì mình ôm con mình quá chặt cháu khó chịu nên thỉnh thoảng cháu cất lên tiếng khóc, lòng của mình rối như tơ vò lo sợ làm sao biết được xe nào đi lên Sài gòn... lỡ như không tìm được nhà Ông QT thì làm sao? Trong người thì chưa có tới 5 ngàn đồng. Con mình lại khóc lớn hơn môi miệng tái mét, anh tài xế nói chắc nó đói bụng đó cô cho nó bú đi, bây giờ mình mới nhớ ra lúc nãy con mình mới bú được có nửa bình thì xe tới đón. Mình với tay lấy bình sữa cùng lúc mình chợt nhớ ra “chết rồi” bình thủy không có nước sôi làm sao pha sữa đây!? Anh tài xế cũng nhận ra điều đó nói, “gần tới đường chính rồi, ở đó có quán nước vô xin hay mua chắc họ có nước sôi đó.” Lúc này mình không cầm được nước mắt vì vừa sợ vừa thương con và suy nghĩ tới những viễn cảnh sắp tới.

Mình nhìn xa xôi về phía trước nước mắt cứ tuôn trào.
Con mình ngưng tiếng khóc ngủ thiếp đi, có lẽ nó mệt vì đói

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mình cũng dựa đầu vào phía sau ghế nhắm mắt cho đỡ mệt vì mấy đêm liên tiếp không ngủ. Bổng dưng dưng mình nghe tiếng la lớn của anh tài xế, “”đm” chết mẹ rồi mấy huynh ơi “tụi nó” trước mặt kia rồi... sao mà nhanh dữ vậy trời.!” Anh ngừng xe quay ra sau lưng ghế anh ngồi, lấy cái túi đồ của anh quàng trên vai, và lấy tay đập đập tấm vách ngăn bằng vải giữa khoang tài xế và thùng xe phía sau la lớn, “xong rồi... tan hàng nha... mạnh ai nấy đi... trước mặt không xa là Quốc lộ, phiá trái đi Miền Tây, phiá phải là hướng đi Saigòn nha mấy huynh.”

Rồi mình cảm nhận được chiếc xe rung chuyển cùng tiếng bình bịch như những trái mít rụng ở phía sau.
Anh tài xế tốt bụng đi vòng qua phía mình mở cửa đưa tay giúp mình bước xuống, thân thể của mình như cọng bún cứ muốn ngã qụy vì qúa mệt mỏi và tê hết cả chân tay, anh tx nói, “tôi rất tiếc không giúp đưa cô đi tới nơi tới chốn. Tôi có thể cầm giúp cô túi đồ với bình thuỷ ra tới ngã 3 thì được, vì tôi đi về nhà ngược hướng đi của cô.” Mình mừng quá vì tay chân của mình lúc này đau nhức rã rời. Mình nôn nóng ra tới ngã 3 để mua nước sôi pha sữa cho con, mắt thì nhìn thấy rất gần nhưng sao đi hoài không thấy tới. Và rồi chúng tôi cũng đi đến nơi ngừng lại ngay góc ngã 3 chỉ có một chỗ bán nước duy nhất. Chỗ bán là một cái lều lợp bằng lá với cái xe ép nước mía cùng mấy chai nước ngọt và cái tủ nhỏ đựng mấy gói thuốc lá, nhưng không có nước sôi vì quán không có bán cà phê. Mình như muốn xỉu nhưng kịp trong đầu nghĩ ngay tới chai xá xị mà mình thích uống từ hồi còn nhỏ.

Chị bán nước hấp tấp dọn hàng đi về vì họ nghe có tiếng súng nổ xa xa, đường xá thì vắng tanh. Chị cho mình chai xá xị không lấy tiền và đưa mình cái ghế để ngồi, chị giúp mình cho nước xá xị vào bình sữa, khi mình mới đưa cái núm vú của bình sửa vào miệng của con ”Trời ơi” Lần đầu tiên mình được thấy cái miệng bú nước xá xị của một em bé đẹp nhất trên thế gian này... và mình đã khóc thật nhiều.

Anh tx nói lời chia tay với nét lo lắng hiện ra trên mặt. Anh nói với chị bán nước nhờ chị đón xe giúp mình về Saigon. Chị nói chị đang dọn dẹp để đi về sớm chớ không có ở đây lâu. Chị cho ý kiến là mình nên tìm chỗ xin nước sôi cho đầy bình thủy chứ không thể cho em bé uống nước ngọt như vầy hoài được. Và chị chợt nhớ ra nói, “cô đi về hướng này,” tay của chị chỉ về hướng đi lên SG nói “em đi khoảng 1-2 cây số phía bên trái có cái chùa em vô chùa chắc chắn là có chỗ nấu nước sôi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bỗng dưng trên đường xe Jeep xe nhà binh của “Quân Đội Ta” chạy nối đuôi nhau chừng 5-7 chiếc, trên xe tiếng reo hò ca hát (những lời bài hát mà mình chưa từng nghe) người trên xe cũng không phải lính VNCH. Những người đứng ngồi trên xe toàn mặc đồ bà ba đen, cổ thì quàng khăn rằn đen trắng tay thì cầm súng.

Lúc này anh tx mới quyết định rời 2 mẹ con mình . Anh nói, “thôi tôi đi đây, cô nghe lời chị này (chị bán quán) và chịu khó đi bộ từ từ tới chùa xin được nước sôi là yên tâm cho bé một phần, và cô xin nằm nghỉ ngơi chút xíu khi tĩnh táo lại nhờ người trong chùa đón xe đi Saigon dùm cho cô nha.”
Lúc này chị bán hàng cũng vừa dọn dẹp xong. Anh tài bước vội qua bên kia đường, mình nhìn theo chỉ còn thấy bóng anh lờ mờ. Mình cũng đứng dậy nói lời cám ơn trong nước mắt với chị bán hàng có tấm lòng tử tế. Mình bước đi theo hướng của chị chỉ với cõi lòng tan nát. Mình nghe văng vẳng tiếng của chị nói phía sau, “không biết Ba của đứa nhỏ đang ở đâu...?”
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Tập 3:

Tình người “ơn nghĩa” giữ trong tim
Ai lòng bạc bẽo chẳng oán hờn
Mong sau mình “có” đền đáp lại
Cho người mình nhận cả tha nhân.

Từ ngã 3 chỗ quán mẹ con mình được giúp đỡ đi tới chùa phải xa hơn 2 cấy số. Vì mình nhớ mình đã đi rất lâu vẫn chưa nhìn thấy được cái chùa ở đâu cả.
Trên đường đi 2 bên đường trống vắng chỉ ruộng lúa không có nhà và không có một bóng cây để che nắng, để cho người đi đường có chỗ dừng chân nghỉ mệt, như hai mẹ con của mình trong lúc này!

Chắc có lẽ đã tới giờ cơm trưa vì mặt trời lên cao nắng chiếu xuống làm cho mình mau khát nước- bụng của mình thì cồn cào vì đói, bất chợt mình rùng mình nhận ra đã lâu mình không nghe tiếng khóc của con gái - cháu nằm im suốt trên con đường dài mình đi, dù rằng đôi lúc mỏi tay mình thường thay đổi qua lại cái túi xách và bé cho đỡ mỏi. Mình bắt đầu run... suy nghĩ miên man biết đâu sau khi mình cho cháu bú xá xị nó có chuyện chẳng lành

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Mình bỏ đồ xuống vạch cái khăn quấn cháu, kê cái má của mình vào lỗ mũi của cháu tay thì để lên bụng xem cháu còn thở không -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

- con mình vẫn còn thở. Lúc này mình hôn lên má cháu lia liạ và khóc vì mừng, miệng thì luôn nói cám ơn con... cố gắng cùng mẹ vượt qua khó khăn này nha con.

Trên đường mình đã thấy có vài chiếc xe đò chạy ngược chiều với nhau, cùng lúc mình nhìn thấy bên kia đường có bụi cây cao lớn như một cánh rừng nhỏ, mình đi thêm chừng hơn 100m mới thấy thấp thoáng cái mái nhà ngói đỏ, thì ra đúng là có cái chùa bên trong đám cây đó. Mình mừng quá hôn thêm con lần nữa và nói, “có sữa cho con bú rồi con ơi!” Bây giờ nó mới khóc và mình cũng khóc theo vì mừng.

Mình đi nhanh qua đường bước gần tới cổng chùa thì thấy có 2 người trai trẻ mặt đồ bà ba đen khăn rằn quấn cổ đi ra. Mình qúa sợ vì thấy 2 người đứng lại, họ nhìn thấy trên tay mình có em bé rồi bỏ đi. Vô tới bên trong chùa có một Sư Cô mặc đồ tu màu vàng tuổi độ 60, bà hỏi mình tìm ai? Mình thưa với bà là mình cần xin bà nước sôi để pha sữa cho con và châm cho đầy bình thủy. Bà có vẻ ngần ngừ thì con mình khóc thét lên miệng thì chép chép cái lưỡi đưa ra như tìm núm vú để bú. Mình nói hồi sáng tới giờ con của cháu chưa được bú sữa bà ơi! Bà nhìn vào bên trong và gọi, “cô Nhàn ơi,” có tiếng dạ từ đó vọng ra, “cô ra đây có chuyện nhờ chút” Có một cô còn rất trẻ mặt bộ đồ màu nâu chạy ra, mình đoán đây là cô Nhàn.

Trong thời gian đợi cô Nhàn nấu nước, mình xin Sư Cô cho mình miếng nước để mình uống cho đỡ khác và đói. May mắn Sư cô hỏi mình có ăn cơm chưa, từ đâu tới đây, tại sao còn nhỏ quá mà có con, rồi ba nó đâu? Nhớ lời anh B4 dặn dò không được nói mình là vợ của lính, mình có bao giờ nói dối đâu, càng không nói dối với người tu hành. Mình thành thật kể cho Bà biết mọi chuyện. Sau khi mình nói dứt lời thì cô Nhàn cũng vừa nấu nước xong, mình để cháu nằm xuống bộ ván lấy sữa và bình pha cho cháu, Sư Cô nói với cô Nhàn “bới cho cổ tô cơm còn đồ ăn hồi nãy cho cổ ăn hết đi” (chắc Sư Cô nghe bụng mình kêu lên vì quá đói.)

Sau khi cho cháu bú và mình được ăn tô cơm chay, mình tự nghĩ tô cơm chay này có thể ngon ngang hàng với buổi cơm cao lương mĩ vị của Vua Chúa ngày xưa. Mình xin nước rửa mặt cho mình và lau mặt thay tã cho con gái xong, mình xin mấy cây nhang đi lên nhà lớn có thờ Phật quỳ lạy cám ơn. và cám ơn hai Sư Cô, mình xin từ giả để ra đường đón xe lên Saigon. Sư Cô nói cô Nhàn giúp mình sách đồ ra đường đón xe đến khi nào mình lên xe rồi mới trở vô. Sư Cô dặn thêm nếu có gặp 2 người quấn khăn rằn như lúc nãy không nói với họ là có vợ lính cũ vô chùa mình nha.

Có 2-3 chiếc xe đò lớn chạy trên đường, xe rất đông có cả người ngồi chật trên mui xe. Mãi một lúc có một chiếc xe lôi chạy tới mình thấy loại xe này đậu ngay ngã 3 chỗ chị bán nước mía và xá xị. Người chạy xe ngừng lại hỏi cô Nhàn, “đi đâu vậy? Trên xe đã có 2 người” Cô Nhàn nói tôi đón xe dùm cho em này đi lên Saigon, ông chạy xe nói, “đón xe chạy thẳng tới Saigon không ai ghé giờ này đâu, chỉ có cách là lên xe tôi chạy đưa tới bến xe Bình Chánh rồi từ đó may mắn thì có xe đi Saigon ngay lúc này.” Cô Nhìn mình nói, “chú này nói đúng đó em, thôi nghe lời chú chịu cực một chút xíu đi em”. 2 người trên xe ra phía trước ngồi nhường lại cái ghế sau cho 2 mẹ con của mình.

Xuống xe ngay chợ Bình Chánh ông tài xế nói, “lẹ lẹ lên, có chiếc xe sắp chạy lên Saigon kìa.” Mình bước xuống xe tay ẵm con tay sách túi đồ hơi bề bộn vì cái bình thủy có đầy nước. Mình thấy ông chạy xe lôi đưa tay nhận tiền của 2 người kia, mình nghĩ, ồ phải trả tiền. Mình hỏi bao nhiêu và ông nói của cháu 1000 đồng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, hồn vía tôi lên mây nhưng cũng phải móc tiền ra đưa cho ông. Vậy là mình chỉ còn lại có hơn 650 đồng. Ông quay đầu nhìn phía chiếc xe đi Saigon nói chờ chờ có người đi nữa nha. Ông phụ mình sách đồ tới chỗ chiếc xe, trên xe đã đầy người trên 2 hàng ghế bìa kể cả hàng chính giữa cùng trên mui. Ông nhanh tay nhét túi đồ của mình dưới ghế ngồi của băng giữa, rồi đẫy mình lên dù chỗ ngồi không đủ cho 2 mẹ con mình, ông vỗ vai người lơ xe nói, “giúp cổ tội nghiệp cổ đi tìm chồng đó.”

Xe chạy được 3 cây số anh lơ xe kêu mình trả tiền, mình hỏi bao nhiêu? Anh nói 2000 mình kêu trời sao mắc quá vậy, bao nhiêu người ngồi gần quay lại nhìn mình với con mắt như đèn pha. Mình năn nỉ nói mình chỉ có 650$ thôi anh lấy dùm tôi được không? Anh lơ xe nói, “không được, 2000 1 chỗ ai cũng vậy, ngồi trên mui còn 1000$ rồi, cô còn có đồ đạc tùm lum!” Mình nói, “thật tình tôi chỉ có 650$ thôi anh làm ơn lấy dùm tôi cám ơn anh nhiều lắm.” Lúc này con mình khóc ngất lên vì nóng nực, chung quanh họ lấn mình muốn rớt xuống sàn xe. Anh lơ xe không bằng lòng nói, “không đủ tiền thì tôi cho xuống xe đó nha” Mình nài nỉ tiếp tục, “thật tình tôi chỉ có 650$ xin anh lấy dùm cho.” Có vài người cùng lên tiếng“không tiền cho xuống đi xe khác đi, ngồi cái kiểu nửa trong nửa ngoài còn có đứa nhỏ trên tay rủi rớt xuống mắc công không có mạng để đền.” Vậy là hai mẹ con mình bị cho xuống xe.
Lúc này là 3g chiều của ngày (30-4-1975).

Mình đứng rồi ngồi vì mỏi tay đau chân nhìn hết xe này chạy qua xe kia chạy lại, mà không có một chiếc xe nào chịu ngừng lại cứu giúp 2 mẹ con mình. Đến lúc trời gần sập tối mình nghĩ sao mà đời mình khốn khổ thế này và con mình có tội tình gì đâu...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Có ánh đèn từ xa chiếu tới với bóng đen mờ mờ của chiếc xe mình nghĩ chắc đây là chiếc xe lớn, mình tự nói với lòng nếu không có xe nào chịu chở hai mẹ con mình đi tới Saigon ở đây mình cũng chết, thôi thì đánh liều một phen. Mình sách đồ ra đứng giữa đường để đồ xuống một tay ôm con một tay ra hiệu cho xe ngừng lại. Mình có thể nghe tiếng thắng xe từ xa và từ từ ngừng lại cách mình khoảng chừng 6-7 thước. Đó là một chiếc xe hàng, một người đàn ông nhảy xuống xe cùng lúc tiếng người phụ nữ hét lên từ trên xe khi chị ló đầu ra nhìn về hướng của mình, chị nói, “có muốn tự tử thì lên cầu nhảy xuống chớ cho xe cán làm khổ thêm người khác!” Ông tài xế đến gần mình thấy trên tay mình ẵm em bé ông hơi dịu giọng hỏi, “có chuyện gì mà cô đứng giữa đường nguy hiểm như thế này?” Mình nói, “tôi không có tiền để trả cho xe đò nếu anh không giúp chở mẹ con tôi đi tới Saigon thì anh cán chết mẹ con tôi dùm đi.” Anh đi về hướng người phụ nữ nói gì đó...khi anh trở lại anh khòm xuống sách tất cả đồ của mình và kêu mình đi theo anh- đi tới xe người phụ nữ bước xuống xe nhìn mình chăm bẵm nói, “lên ngồi ở giữa thục ra phía sau một chút.” Rồi chị bước lên theo sau mình.

Mình phải co 2 chân lại mới vừa đủ chỗ ngồi phía sau 2 ghế của AC chủ xe, vì đồ của mình và mấy túi đồ của AC.
Mình sao cũng được chỉ lo cho con mình bị ngộp thở.
Chị vợ quay đầu ra sau nhìn mình rồi với tay lấy cái bình thủy nhỏ của chị rót ra cái ly “mình nghe mùi cafe, và mùi cà phê đó nó theo mình tới bây giờ, dù hiện tại bs khuyên mình không uống cà phê nhiều, mình cũng pha để ngửi...”.
Chị chủ xe lên tiếng nói “thằng quỷ sứ phải chi nó chạy về sớm thì mình đâu có bị trể như thế này. Lên tới trển còn phải dọn đồ không biết nhiều hay ít...sợ cẩu tới tối mai mới trở về nhà lại được. Anh chồng nói, tôi gắp đi nên nghe nó nói loáng thoáng là đáng lẽ ảnh chỉ đi bằng máy bay tới giờ cuối cùng lại đi bằng tàu cũng ngộ, vì ảnh là Không Quân Phi Công lái máy bay. Chị Vợ nói tiếp, tôi đang lo hàng sớm thấy mình dọn đồ, họ nghĩ mình là ăn trộm thì chết cha mồ tổ đây nè. Anh chồng nói, tôi thì sợ lên tới trển mấy thằng VC có bắt mình không đây nè, nghe ra dô nói mấy chả ở đầy trên đó hết rồi, và trên đường trở về nó chặn lại không cho đi mới chết mẹ luôn đó chớ”.
Sau này mình mới hiểu chuyến xe đó là người nhà của một gđ người lính Không Quân (Pilot) đi nước ngoài bằng tàu của Hải Quân. Họ lên để dọn đồ về quê khi có ai đó về báo tin cho gđ.
AC chủ xe bỏ mình xuống bến xe Xa Cảng Miền Tây, lúc này mình muốn qùy xuống lạy họ mới đủ tỏ lòng cho sự biết ơn của mẹ con tôi.
Mình hy vọng họ gặp được nhiều may mắn như họ mong muốn... vì họ là người tử tế.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------


Tập cuối:

Chị chủ xe lúc đầu có vẻ khó chịu, thời gian ngồi chung trên xe AC có hỏi sơ về hoàn cảnh của mẹ con mình, nghe mình kể chị có vẻ cảm động. AC hỏi mình tới Saigon địa chỉ nhà ở đâu? Mình móc trong túi quần ra tờ giấy của Ông Quận Trưởng đưa cho chị xem. Chị la lên, “Trời Đất Quỷ Thần ơi, nhà gì mà ở xa quá trời vậy cha nội, tối rồi biết có còn xe đi tới trên đó không đây chớ.” Anh chồng hỏi ở đâu mà xa, chị nói, “tuốt trên Hốc Môn Bà Điểm lận.” Anh chồng nói chắc có xe xích lô máy họ chạy mà, chị quay nhìn mình nói, “sắp tới Xa Cảng rồi đó, tụi tui bỏ em xuống em tìm xe xích lô máy đưa địa chỉ cho người ta coi, rồi họ chở đi tới nơi cho.” Mình hỏi chị có biết bao nhiêu tiền đi tới đó không? Chỉ trả lời, “bình thường đi xe lam thì không có bao nhiêu nhưng lúc này thì ai muốn nói giá nào cũng được hết, mình cần thì mình cũng phải chịu thôi.” Mình hỏi chị “em chỉ còn 650$ có đủ không chị?” Chị hỏi, “hết trong người em có bao nhiêu đó thôi sao?” Mình gật đầu “Dạ” Chị nói “hơi ngặt à nha” Anh chồng với giọng an ủi, “thôi chỉ cần có xe chịu chở em đi giá cả bao nhiêu cũng phải chịu, nói họ chở tới nhà rồi người nhà ra trả tiền chắc người ta chịu mà, không thì năn nỉ vì em có con nhỏ chắc họ thương tình họ sẽ chở cho.”

Mình bước xuống xe chân mình loạng choạng cố gắng đứng vững không thì bị té chúi nhủi vì 2 chân tê cứng. Tiếng máy xe, tiếng la, tiếng nói, tiếng bước chân đi nhanh ngay bến xe Xa Cảng Miền Tây làm mình hốt hoảng, mình tìm chỗ ngồi định hồn lại và mò trong túi quần cho chắc ăn còn tờ giấy địa chỉ nhà của ÔB Quận Trưởng. Con mình khóc vì đói, mình tìm chỗ ngồi xuống, gần chỗ người bán thuốc lá và có mấy chai nước ngọt với cái thùng đựng nước đá nhỏ để ở dưới bàn, trước cái bàn có cục gạch vuông và chai xá xị trống không để lên cục gạch dấu hiệu là nơi đây có bán xăng.
Mình pha cho con gái bình sữa cho cháu bú, mắt mình cứ nhìn về hướng người bán thuốc lá và mấy chai nước ngọt, mình đang khát nước và thèm được uống chai xá xị, nhưng đành quay mặt đi chỗ khác. Cho con gái bú xong thay cái tã khô cuối cùng còn lại trong túi sách. Mình lấy nắp bình thủy rót nước ra uống cho đỡ khát.

Ở bến xe Xa Cảng Miền Tây lúc này ngoài mấy người mặc bà ba đen cổ quàng khăn rằn còn có nhiều người mặc đồ xanh giống màu xanh của lính, nhưng tươi hơn đầu đội nón cũng xanh bằng **** khaki có vành tròn chung quanh tay cầm súng mặt mày lạnh như tiền.Mình đứng lên đi về hướng có nhiều xe taxi, xích lô máy, xích lô đạp đang đậu. Đi tới gần mấy ông xích lô đạp vồn vã hỏi mình đi đâu? Mình nói tôi đi về Bà Điểm Hốc Môn, ông xích lô đạp la lên đưa tay khoát về hướng taxi và xe xích lô máy, “có chuyến đi BĐHM nè mấy đại ca ơi.” 2 ông chạy taxi đi nhanh tới hỏi BĐHM chỗ nào? Mình đưa địa chỉ và hỏi bao nhiêu tiền? Ông nói “đi xa tôi phải chạy xe không về lại đây tôi lấy 5000!”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

mình khóc liền tại chỗ và nói sao mắc quá vậy, năn nỉ chú bớt cho mình- ông không chịu, cuối cùng mình nói chú chở mình về tới nhà theo địa chỉ mình sẽ nói người nhà trả tiền cho chú. Ông khoát tay lia lịa nói, “thôi thôi công trình chạy xa tới đó rồi xuống xe cười trừ thì tôi húp cháo.” Mấy tài xế khác thấy ông nói chuyện quơ tay lớn giọng nên cùng đi tới xem. Ông kể lại đầu đuôi cho mấy người kia nghe, một ông lái xe taxi như ông quay lưng bỏ đi, còn 3 người chạy xích lô máy đứng lại, một anh hỏi, “đâu đưa địa chỉ tôi coi coi,” mình đưa cho anh tờ giấy và khóc, “mấy chú làm ơn chở mẹ con tôi về dùm con tôi hết sữa uống rồi, nếu không về nhà được tối nay chắc con tôi chết đói đó mấy chú ơi.” Người trẻ nhất trong 3 người lấy tờ giấy ghi địa chỉ xem xong nhìn người lớn tuổi nhất nói, “ông ba nhà cổ trên nhà ông mấy cây số thôi vớt cú chót về nhà nghỉ, nằm nghe ra dô đi ba ơi.” Người được gọi là ông ba lấy tờ giấy coi xong hỏi tôi, “hiện giờ trong người cô có được bao nhiêu tiền?” Mình móc ra để trong lòng bàn tay nói dạ có 650$, Ông hỏi tiếp, “cô có chắc là về tới nhà cô người nhà sẽ chịu đưa tiền thêm cho tôi không?” Lúc này con mình tự nhiên cất tiếng khóc lớn làm mình cũng khóc theo và trả lời ông trong nước mắt, “con nói thiệt mà, nếu người nhà con không trả tiền cho ông, ông chở hai mẹ con của con ra sông cái bỏ xuống đi.” Rồi ông đưa tay nói, “đưa tôi 650$ đó trước đi”. Ông mang đồ của mẹ con mình đi tới hướng xe của ông để một bên góc ghế ngồi và chỉ mình lên ngồi kế bên.

Khi mình lên xe ngồi ông đưa tay kéo miếng nylon che ngang kín mặt, mình hết hồn, cùng lúc ông nói, “tối rồi đi đường xa gió lắm không tốt cho đứa nhỏ.” Khi tiếng xe máy vừa nổ mình nghe tiếng của mấy người còn lại nói, “hy vọng mai có tiền bao cà phê nha ông già.”

Trên đường đi có lúc ông chạy rất nhanh lúc thì gần như ngừng lại để nhường cho xe nhà binh chở mấy người la hét reo hò. Mình nghe tiếng súng nổ mình la lên, “có sao không chú ơi?” Ông trả lời, “không sao đâu, chỗ này là chỗ căn cứ của lính cũ (ngã tư Quang Trung) nên còn hơi lộn xộn.”

20 phút sau xe ngừng lại và ông tắt máy xe, ông bước xuống gỡ tấm màn nylon ra trời bên ngoài tối đen như mực. Ông móc túi áo lấy tờ giấy ghi điạ chỉ tay kia móc túi quần lấy hộp quẹt bật lên đưa tờ giấy xem rồi nhìn địa chỉ ghi trên cột trụ của cổng nhà.
Ông nói “đúng rồi” và ông đưa tay lên bấm chuông, ông lẩm bẩm, “villa gì mà bên trong tối thui bộ sợ hao điện hay không có ai ở trong đó.?” Ông bấm lần thứ tư bên trong có giọng của người phụ nữ lên tiếng, “Ai đó?” Ông kêu mình lên tiếng, mình sợ quá biết nói sao đây? Vì không phải tiếng của ÔB Quận Trưởng. Ông lại hối, mình nói chú nói dùm là “có cô V vợ ông K tới tìm nè.”

Trong nhà im lặng không một tiếng động, mấy phút sau có bóng đèn nhỏ tuốt phía sau bật sáng, chúng tôi thấy bóng người phụ nữ đi ra mở cửa, mình mừng muốn ngộp thở. Người phụ nữ đó mở cửa chú chạy xe nói, “tất cả đồ trên xe là đồ của cổ hết đó xách vô dùm cổ đi.” Ông nhắc mình nói người nhà đưa tiền. Mình kể cho chị mở cửa biết nhờ chị vô thưa lại với ÔB QT. Chị mang đồ đi vô mình ở lại với chủ xe xích lô máy. Khi chị trở ra vừa đi vừa chạy, tới nơi chị đưa tiền liền cho chú, chị nói ÔB tôi nói đưa ông đủ 5000$ còn 650$ kia ông đưa lại cho cô này đi.

Mình đi cùng chị vào bên trong, từ cổng đi tới cửa sau nhà xa có hơn 30m.

ÔB QT đã đứng đó đợi mình, bà lên tiếng trước, “em đi về được tới đây vậy là mừng lắm rồi. Chắc em đói lắm phải không?” Bà nhìn về phía bếp và kêu, “Hạnh ơi hâm đồ ăn để cho cô V tắm xong cho cổ ăn, con coi tắm cho con của cổ và cho em bé bú dùm cổ nha nha H.” Nỗi mừng vui của mình trong lúc này không thể nào tả xiết.

Bây giờ là 11g đêm của ngày 30-4-1975. Chỉ hơn 15 tiếng đồng hồ sau khi mình rời Chi Khu RK nơi K làm việc, mà mình tưởng chừng như một thế kỷ. Bà QT nói với Ông QT, “mình gọi cho chú K đi (cả 2 nhà đều có điện thoại), như hồi chiều mình nói với chú: khi mình gọi chuông reng mình cúp là vợ chú tới nhà mình rồi.”
ÔB mới kể cho mình nghe là K đã ở đây và Anh mới đi về hồi chiều.

<K được Ông QT cấp tờ giấy sự vụ lệnh cùng tài xế lấy xe của Chi Khu đi về Bà Điểm Hốc Môn đón Bà QT xuống lại RK. K lên tới nơi lúc 7-8 giờ sáng, trong thời gian ngồi đợi Bà QT chuẩn bị đồ đạc cho các con của bà K theo dõi tin tức trong radio thì được biết Ông Dương Văn Minh đang bàn giao Miền Nam VN cho c.... s.. Miền Bắc. Và Ông DVM kêu gọi tất cả Quân Nhân của các binh chủng tất cả ai ở đâu thì ở đó không được đi lại. Thế là K ở lại nhà của ÔB QT, K tin là Ông QT sẽ tìm cách dẫn mình về cùng với Ông như lời Ông đã hứa với K lúc Ông nhờ K đi công tác cho Ông>

Mình mệt lã người - có phòng, có giường ngủ đàng hoàng mà mình không thể nào ngủ được, tuy đã qua đoạn ngặt nghèo không tiền trong túi, nhưng còn mối lo khác là mình không biết K tính về phần của hai mẹ con của mình như thế nào, sống ở đâu? Lúc này mình nhớ má và ngoại vô cùng.

Sáng sớm 6giờ K đã có mặt tại nhà ÔB QT rồi. Mình gặp lại K mừng vui vô kể. Nhưng nỗi sợ cũng đi kèm theo không kém.
Ông QT kêu chị Hạnh pha cà phê cho Ông và K và bảo chị H chạy ra chợ coi có bán gì ăn sáng mua mang về, hay mua bánh mì về chiên trứng ốp la ăn cũng được.

Khi chị H đi Ông gọi Bà vợ của Ông và mình ra ngồi nói chuyện. Đến bây giờ mình mới biết là Ông sai K đi đón vợ con Ông xuống lại Chị Khu là để cùng nhau đi ra nước ngoài bằng tàu. Ông nói, “chuyện đã không thành thì ở lại tới đâu hay tới đó. Còn phần chú tính sao đây? Không lẽ chú dấu Ba Má chú với gđ là chú chưa có con có vợ hoài sao?” K trả lời với Ô QT, “em không biết sao bây giờ Đường về Miền Tây tụi nó kg cho đi lại bình thường, tụi nó chặn lại không cho giao thông lên xuống được nữa. Nếu em đưa V và con em đi về nhà em lúc này chắc Má của em chết mất!“ Ô QT nói, làm sao thì cũng phải nói thật với gđ, em đã có con hơn nữa trong lúc này chắc gđ không nỡ bỏ đứa cháu nội không nơi nương tựa.” Lúc này trong đầu mình nghĩ, “nếu đường đi về quê kg bị cấm mình cũng kg dám về vì sợ Ba dượng sẽ hành tội Má của mình” Ông QT nói tiếp, “phải chi có chuyến đi lúc này mình liều một phen đi cùng chung với nhau thì tốt biết mấy.” Vợ Ông thì ngồi kế bên bà chỉ biết khóc. Ông nói thêm, “anh cũng đang lo có thể bất cứ lúc nào... nửa đêm nửa hôm tụi nó tới trùm đầu bắt anh đi thì khổ cho chị và mấy đứa nhỏ.”

Mỗi người có mỗi cái khổ riêng... chuyện binh nghiệp thì không còn gì để nói, chuyện tâm tình thì cũng chia sẻ hết lời. Ô QT lấy tay để lên tay của Bà nói, “em lấy 20 ngàn gửi cho V giữ trong túi về mua sữa cho cháu, mong tụi mình khỏe mạnh rồi sẽ còn gặp lại nhau.” K từ chối không lấy. Ô QT nói, “anh tặng sữa cho con chú chớ đâu phải cho chú đâu mà từ chối.” Rồi Ô quay nhìn mình và hỏi, “thằng Chín (cận vệ của Ô) khi anh rời Chi Khu đưa cho nó 5000 kêu đưa cho thím nó có tới gặp thím không?” Mình trả lời, “dạ không có” Ô lắc đầu nói “thằng tệ vậy!”

Chị H đi chợ về chỉ có bánh mì và trứng, chị làm cho 4 chúng tôi ăn xong Bà QT nói chỉ vô phòng kho đựng đồ của gđ ÔB lấy ít tã cũ của con Bà cho con mình, nói tiếng là cũ nhưng cũng còn rất tốt.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



THỜI KHẮC SỐ PHẬN VÀ ĐỊNH MỆNH CỦA TÔI!!

** Nhà K ở Quận 1, mình đã có tới nhà K một lần nhưng chỉ đứng ở bên ngoài, không ai trong nhà hay biết - thời gian đó K mới đổi về Tân An vào dịp lễ, K dẫn mình lên Saigon chơi. Và mình nhớ hoài kỷ niệm ngày vui hôm đó. K lấy xe hơi chở mình đi Thủ Đức ăn nem nướng. Mới chạy chưa tới 500m thì xe tắt máy (K không biết lý do) mình phải đẩy phụ K trở ngược về nhà. K lấy xe Honda chở mình đi. Ăn bún nem xong về lại Saigon ăn kem và xem cine. Ngày đó K và mình ở lại Saigon, K dẫn mình đi mướn khách sạn, họ không cho mướn vì mình chưa tới 18t. K năn nỉ một hồi họ bằng lòng và nói chỉ cho ở 1 đêm thôi. “sau này Anh mới biết chiếc xe chết máy vì ở nhà có khoá bình xăng con, mà quên nói với K”. **

Hôm nay mình được K đưa về nhà của K, cũng trên đường cũ, nhưng tâm trạng của mình không có háo hức như lần trước. Tâm sự ngổn ngang. Lo sợ rồi đây nếu Má K không chấp nhận thì sao? K hay kể chuyện về gđ của K, Má K là linh hồn của gđ. Bà rất khó, trong nhà ai cũng thương và sợ Bà một phép, dù rằng Ba của K là người làm ra tiền. GĐ K có 14 anh chị em, 8 gái 6 trai, K là thứ 5.

Chúng mình ghé quán cafe trước để K bình tĩnh suy nghĩ tìm cách nói sao với gđ. Mình được uống nước xá xị nhưng sao hôm nay thấy nó đắng chứ không thơm ngon như mọi khi. K ngồi suy nghĩ một lúc rồi nói với mình, “thôi để Anh ẵm con vào nhà trước để xem phản ứng của Má anh và gđ như thế nào.” Mình nói, “tuỳ anh nhưng anh nhớ đi mau mau.” Mình ngồi lại quán cafe K ẵm con đi với túi tã và sữa. Thời gian lúc này đối với mình như vô định - mình qúa lo sợ đến độ mình phải chạy ra sân trước quán cafe ói mấy lần. Rồi bóng K xuất hiện trở lại, nhìn bước chân của K đi nặng nề như có mang 2 cục đá dưới chân. K vô bàn ngồi xuống, mặt K như muốn khóc nói, “anh chưa dám nói gì với Ba Má hết, nhìn mặt Má anh nói không ra lời.” Mình hỏi rồi con đâu? Anh nói, “anh để con trong nhà anh nhờ chị cả bồng dùm, chỉ có hỏi con của ai? Lúc đó Anh định nói ra nhưng thấy Má cũng đang nhìn đợi anh trả lời, anh sợ quá nói con của người bạn gửi em giữ dùm trong lúc má nó đi tìm ba nó”

Mình nói, “thôi anh vô ẵm con ra đây rồi đi mướn KS ở đỡ khi nào người ta cho xe chạy về quê lại em với con về nhà ngoại ở.” Ngồi một lúc K nói, “thôi em đi theo anh vô nhà đi tới đâu hay tới đó.”

Chúng tôi đứng lên trả tiền xong cùng bước đi về hướng nhà của K. K đi trước mình nép sau lưng K đi sau, mình thấy con mình đang trên tay người phụ nữ mình nghĩ đó là chị lớn nhất của Anh. Chị reo lên giọng chị rất vui, “ô mẹ của con tới rồi nè.” Lúc này Má K nhìn thấy mình rồi Bà kêu lên, “ô Cái V đây mà...”

(Thỉnh thoảng Bà có xuống thăm K ở chỗ của anh làm việc cùng với Ba dượng của mình. Có lần mình được gặp Bà vì Má mình có mời Bà đến ăn cơm cùng lúc mình từ Long Xuyên xuống. Lần đầu tiên Bà gặp mình đi về Bà nói với K, “con phải giữ gìn không tới nhà này thường vì nhà người ta có con gái đang lớn, lửa gần rơm có ngày cũng bén đấy.” K nói với má anh, “con bé đó nó ở LX lâu lâu mới xuống đây thôi, nhìn cái thân thì lớn chứ nó còn nhỏ tuổi lắm.” Bà nói, “thì má nhắc chừng con vậy mà.”)

Rồi Bà đứng lên đi vô phòng, tất cả các chị em của K cùng lúc lên tiếng hỏi, “đây là vợ con của em phải không? Em vô mời Ba Má ra nhận lỗi vì không xin phép Ba Má mà có vợ con.” Cả nhà cùng nhau năn nỉ mời được Bà đi ra. K quỳ gối xuống ôm chân Bà và nói, “con xin lỗi BM hãy tha lỗi cho con kể từ giờ phút này BM coi như có con mà không có vợ, và đây là người mẹ của con con”.
7-8 giờ tối ngày 1-5-1975

Chắc chắn là những ngày sau đó không khí trong gđ của K không vui vẻ gì... cái lo lớn hơn là trong tương lai sau ngày mất Nước phải sống ra sao...?. May mắn là BM của K và cả nhà rất thương con gái của mình, mình mừng lắm và an tâm khi Bà cho phép mình ở lại nhà để đợi K đi trình diện “10 ngày” theo lệnh của chánh quyền mới- khi nào K về rồi sẽ tính sau”.
Cứ nghĩ K đi trình diện “10 ngày” sẽ về. Và rồi gần 6 năm sau K mới ra tù -, cũng phải nhờ họ hàng có thần thế còn ở lại Miền Bắc giúp đỡ. K bị đưa ra tới Miền Bắc Cao Bằng Lạng Sơn vì tội là CTCT.
Trong thời K bị nhốt ở trong Miền nam trại Long Khánh cho tới trại Long Giao, và sau ra tới Vĩnh Phú, Miền Bắc - trong tù nếu ai ở chung cùng K đều biết K là người rất tốt với bạn bè, trong tù cũng như ở ngoài, K luôn nhường nhịn và chọn việc nặng để việc nhẹ cho bạn làm. {Trong đời của K chỉ có biết ăn hiếp một mình mình thôi}

Mình cũng như những phụ nữ khác bương chải từ chợ trời đến chợ nhỏ, cùng lúc Ba dượng của mình cũng đi tù Má mình phải lo một mình với đàn con nhỏ, mình có 1 em trai cùng chung BM, nhỏ hơn mình 2 tuổi. Còn lại mấy đứa em sau đứa lớn nhất 10t, nhỏ nhất 2t.
Mình phải phụ Má mình nên bất cứ công việc nặng nhọc tới đâu mình cũng không từ nan, có thời gian mình gánh chuối tới chợ Thái Bình ngồi bán, trên đường đi về khoảng 2 cây số, vai của mình rớm máu từ nhẹ rồi nặng, rách cả thịt không còn gánh được nữa mình đổi qua nghề mua bán thứ khác, nhờ một chị ở chợ thấy tội nghiệp nên mách vô Chợ Lớn mua khăn mới đủ loại sáng ra chợ trời Hàm Nghi chiều về chợ nhỏ gần nhà bán. Sau vài năm Má mình bị bệnh ung thư, cái túng chòng lên cái khồ. miếng ăn kiếm đã khó còn thêm tiền thuốc và bv. Sau 3 năm căn bệnh hành hạ Má mình qua đời, thế là mình chính thức làm mẹ thứ 2 của các em mình.

Cho đến hôm nay sau khi mình bị mổ tim, mình hoàn toàn nghỉ việc. Suốt gần 40 năm qua mỗi ngày từ 12-15 giờ mình làm việc kg nghỉ ngày nào chỉ trừ khi ở Mỹ, nghỉ được 3 ngày lễ lớn trong năm khi tất cả shopping malls đóng cửa.
Mình tự nguyện với lòng dạy con gái mình phải sống biết chia sẻ khi gặp người khốn khó trong khi mình có, sống thật thà, tử tế không gian tham.
Nhờ Trời thương và chắc Má mình phù hộ nên mình được người Mỹ rất tốt giúp mình thành công trên đất Mỹ, dù rằng mấy năm đầu mình chiụ nhiều đắng cay và vất vả. Sau khi mình ổn định mình có cơ hội đền ơn cho Ông Ban 4 có một cửa tiệm làm ăn, nghe nói bây giờ AC ấy rất giàu.


“K đi tù về năm 1981, tụi mình đi vượt biên mấy lần kg thành, cuối cùng chúng mình đi được vào năm 1985, tới Mỹ 1986... Hiện tại thì K đã mất cách đây 5 năm 3 tháng 15 ngày...

Hết

4 Tập hồi ký này mình viết vào năm 2020... Nếu có chữ nghĩa nào sai trật mình xin các bạn thông cảm bỏ qua!... và tặng cho các ace mấy câu thơ mình cũng đã viết vào năm rồi.



Bốn lăm năm nhìn lại
Tuy rằng ta đã già
Nhưng lòng luôn tự nghĩ
Như mới ngày hôm qua


Bốn lăm năm nhìn lại
Ai mất còn bên ta
Để cùng nhau chung bước
Dù đường chẳng còn xa


Bốn lăm năm nhìn lại
Ngày ấy xa thật rồi
Chỉ còn là kỷ niệm
Bao nỗi buồn xót xa


Bốn lăm năm nhìn lại
Cũng như ngày hôm qua
Trên tay bồng con dại
Ôi đường sao quá dài

Phuong Vy Nguyen

Sửa bởi tuphuongsg: 26/04/2021 - 19:38


Thanked by 2 Members:

#188 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 26/04/2021 - 19:47

Câu chuyện về Jacky Ly

Khó có thể biết Lý Vĩnh Thắng – tên tiếng Việt của Jacky Ly – sẽ trở thành người như thế nào nếu Thắng và gia đình vẫn còn ở một ngôi làng nghèo miền núi ở Phó Bảng, Hà Giang. Có thể Thắng là một “học sinh nghèo vượt khó” xuất sắc nhưng cũng có thể Thắng chỉ là một anh nông dân chăn bò, làm nương rẫy, như thời niên thiếu, và chôn cuộc đời ở một ngôi làng nhỏ đến mức thậm chí gần như “không có tên” trên bản đồ các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam. Câu chuyện về Jacky Ly là trường hợp điển hình của vô số gia đình Việt Nam trong đó việc quyết định tìm kiếm tự do bằng con đường vượt biên là chọn lựa duy nhất và quyết định đó đã mang lại những bước ngoặt thay đổi khó có thể ngờ…

Băng rừng vượt biên

Việc chuẩn bị được thực hiện chu đáo và cẩn thận. Trước khi đưa cả nhà đi, ông Lý Hội Quyền – cha của anh Lý Vĩnh Thắng – đã một mình lẻn sang Vân Nam-Trung Quốc để dò xét và tìm chỗ ở tạm. Một đêm năm 1987, Thắng – lúc đó 10 tuổi – cùng hai chị và đứa em gái được bố mẹ chở trên xe đạp. Hành lý mang theo chỉ là vài bộ đồ và ít thức ăn. Họ bắt đầu cuộc hành trình bí mật. Phải kín đáo và thận trọng tuyệt đối. Chỉ một dấu hiệu đáng ngờ, họ cũng có thể bị hàng xóm trình báo và bị công an bắt. Đây là lần thứ hai họ vượt biên. Lần thứ nhất, đi từ Hải Phòng, trước đó vài năm (1979), đã thất bại. Sau chuyến đi không thành đó, gia đình ông Lý đến sống ở Tân Mỹ, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Họ lầm lũi sinh nhai bằng nghề nông. Tuy nhiên, ông Lý vẫn âm thầm tìm cách thoát. Hành trình vượt biên lần thứ hai khởi hành từ đây, cách biên giới Việt-Trung đến 400 km.

Băng qua biên giới một cách an toàn là điều không đơn giản. Vết tích cuộc chiến Việt-Trung 1979 vẫn còn in đậm. Cả hai bên biên giới đều đầy mìn và bẫy chông. Để tránh bị phát hiện bởi lính biên phòng của cả hai bên, gia đình ông Lý phải len lỏi đi trên những con đường mòn nhỏ, xuyên rừng. Có những đoạn ông Lý phải cõng đứa con gái sáu tuổi gần như suốt ngày lẫn đêm (sau này khi kể lại, ông nói rằng nếu không phải là cô con gái của ông mà là khối vàng thì ông cũng sẵn sàng vất bỏ vì quá cực nhọc).

Sau 14 ngày, gia đình ông Lý vào đất Vân Nam-Trung Quốc. Thở phào. Nhưng chưa nhẹ nhõm. Không giấy tờ tùy thân, họ có thể bị nghi ngờ, tố giác và bị công an Trung Quốc bắt đuổi trở về Việt Nam. Cả nhà ông Lý phải di chuyển liên tục và có khi phải chia ra ở rải rác. Họ chỉ tá túc một chỗ trong vài tuần rồi lại tìm nơi khác. Cuối cùng, họ đến Phòng Thành, Quảng Tây. Tại đây, ông Lý cùng một số người Việt khác, cũng vượt biên trốn khỏi Việt Nam, tìm cách đi khỏi Trung Quốc. Họ tìm được một đầu mối giới thiệu mua thuyền và thuê tài công. Họ dự tính thoát đến Macau. Nếu Macau từ chối nhận tỵ nạn, họ sẽ đi Hong Kong. Nếu Hong Kong khước từ, họ sẽ đi Nam Triều Tiên. Nếu lại bị từ chối, họ sẽ đi Nhật Bản!

Ngày 18-6-1988, 72 người tỵ nạn, trong đó có sáu thành viên gia đình ông Lý, lục tục xuống chiếc thuyền đánh cá cũ nát. Con thuyền dài 12m-rộng 3m chỉ có mái che sơ sài cho khoang động cơ. Mọi người mang theo lương thực cho khoảng 30 ngày và phó mặc số phận cho hai tài công. Sau vài ngày lênh đênh, giữa cái nắng lột da và những cơn đói dữ dội, họ bị một trận bão dập tơi bời, những tưởng thuyền bị lật úp và tất cả chết đuối giữa biển. Khi đến Bắc Hải, thành phố phía Tây Nam Trung Quốc, họ lại bị một “cú sét đánh” thậm chí choáng váng hơn: qua radio, họ biết tin Macau lẫn Hong Kong vừa tuyên bố ngưng nhận người tỵ nạn Việt Nam. Bất kỳ người tỵ nạn Việt Nam nào đến Hong Kong sau ngày 16-6-1988 đều bị đưa vào trại tập trung để trả lại quê nhà. Không lẽ quay về? Họ liều mạng đi tiếp.

Sau 13 ngày “nướng” mình dưới nắng biển, họ đến gần Macau. Hai tài công rời thuyền. Họ được thuê chỉ để đưa mọi người đến đây, như thỏa thuận. Một người Việt, tên Thái, bất đắc dĩ trở thành người lái thuyền. Sự thiếu kinh nghiệm đi biển lập tức được “trả giá” sau đó khi thuyền va vào đá ngầm. Hỗn loạn và sợ hãi. Thật may là họ được cảnh sát biển Macau phát hiện và cứu. Sau khi giúp sửa thuyền, cảnh sát Macau yêu cầu tất cả rời đi. Mọi người lại ra khơi, gần như trong vô vọng. Cuối cùng, ngày 1-7-1988, thuyền đến Hong Kong. Đây là con thuyền thứ 47 của người tỵ nạn Việt Nam đến sau khi Hong Kong ban bố chính sách mới dành cho người tỵ nạn kể từ ngày 16-6-1988.

Những năm tháng ở trại tỵ nạn Hong Kong in sâu ký ức Thắng. Nếu không được bố mẹ và hai chị dạy bảo và che chở, Thắng rất có thể đã trở thành đứa bé hư hỏng đi theo đám băng nhóm giang hồ thuộc thành phần tỵ nạn đến từ các tỉnh khác của Việt Nam. Trại tỵ nạn chật chội, đông đúc, với đủ thành phần phức tạp, đã tạo thành một xã hội Việt Nam thu nhỏ nơi người ta không chỉ giành giật miếng ăn mà còn gây ra những hành vi tội phạm. Hãm hiếp và đâm chém xảy ra như cơm bữa. Sau hơn hai năm sống trong cảnh nhốn nháo, gia đình ông Lý cuối cùng được Chính phủ Mỹ đồng ý cho tỵ nạn. Họ được đưa qua Philippines sáu tháng để học tiếng Anh trước khi đến Mỹ…

Bắt đầu từ tay trắng

Nước Mỹ. North Carolina. Cuộc hành trình dài đã đến đích. Tuy nhiên, một chặng mới lại bắt đầu. Tất cả đều chỉ có hai bàn tay trắng. Họ đã rời con thuyền rách nát số 47. Họ đã rời khu ổ chuột tỵ nạn Hong Kong. Họ đang đặt chân đến một vùng đất xa lạ và tiếp tục đi trên những con đường thậm chí khó khăn và khó lường hơn cả những con đường mòn vượt rừng xuyên bóng đêm băng qua Vân Nam ngày nào. Phần tiếp theo của câu chuyện là chuỗi nỗ lực điển hình của gần như mọi người Việt tỵ nạn giai đoạn đó. Chen chúc trong căn nhà nhỏ được cấp tạm cho người tỵ nạn, gia đình ông Lý lao vào xã hội Mỹ với vốn liếng tiếng Anh gần như bằng không. Ông Lý phải làm ba “job” để giúp gia đình. Ban ngày ông làm thợ hàn. Ban đêm ông làm công nhân xưởng lắp ráp. Và cuối tuần ông làm nhân viên phục vụ nhà hàng. Trong khi đó, vợ ông lãnh quần áo gia công về nhà may; và hai chị của Thắng-Jacky đi làm nail sau khi học xong trung học. Jacky cũng phải đi làm thêm vào cuối tuần, từ chạy bàn đến rửa chén, cho đến khi vào đại học và vào quân đội…

Khó có thể biết ông Lý Hội Quyền nghĩ gì về tính mạng của mình cũng như vợ con vào thời điểm ông quyết định đưa cả nhà đi vượt biên. Nhưng có điều chắc chắn rằng ông không thể tưởng tượng có ngày mà cậu con trai duy nhất của ông, Vĩnh Thắng – Jacky, lại thành đạt hơn cả sự mong đợi, với không chỉ hai bằng master (từ National War College và Đại học Johns Hopkins), mà còn trở thành một sĩ quan cấp cao quân đội Hoa Kỳ. Ông Lý Hội Quyền (từ trần năm 2012) – người mà Jacky luôn xem như là tấm gương vĩ đại đối với mình – cũng khó có thể tưởng tượng một ngày mà con trai ông trở về lại Phó Bảng với tư cách một sĩ quan quân đội Mỹ, ở cương vị Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt, thực hiện các dự án hợp tác và tìm kiếm cơ hội hỗ trợ những gia đình nghèo miền núi Việt Nam, nơi có bóng dáng những đứa trẻ lếch thếch hệt Vĩnh Thắng ngày nào…

Tôi phải cố gắng, luôn cố gắng, phải “work extra hard” – Jacky nói. Ngày 1-1-2021, Jacky Ly trở thành đại tá quân đội Hoa Kỳ (lễ gắn lon chính thức được tổ chức chiều ngày 23-4-2021). Sau hơn 20 năm phục vụ quân đội Mỹ, Jacky Ly vẫn muốn tại ngũ. 42 tuổi, Jacky sẽ còn đi xa, thậm chí có thể xa hơn cả những điểm đến mà người cha không bao giờ có thể nghĩ tới, khi ông cõng cô em gái của Jacky lên đường trong đêm tối cùng gia đình ra đi chỉ với một thôi thúc: tìm kiếm tự do và một tương lai sáng sủa hơn cho các con của mình.

***************

Đại tá Jacky Ly

Từng chỉ huy đại đội lính nhảy dù mũ đỏ (thuộc 82nd Airborne Division) và tham gia chiến trường Afghanistan, Iraq, cũng như công tác tại Hàn Quốc, Hawaii…, cuộc đời Jacky Ly gắn liền với binh nghiệp. Nhập ngũ năm 18 tuổi khi vào Vệ binh North Carolina với dự tính ban đầu chỉ phục vụ quân đội ba năm nhưng sau đó Jacky không rời bộ quân phục. Jacky tốt nghiệp bằng cử nhân quản trị doanh nghiệp về hệ thống thông tin máy tính từ Đại học Appalachian State. Trong thời gian quân ngũ, ngoài những khóa đào tạo chuyên biệt trong quân đội, Jacky còn học National War College, Đại học Johns Hopkins, và Trường tham mưu quân sự Malaysia. Từng là Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng (Chief of the Office of Defense Cooperation) trực thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Jacky còn là cố vấn quân sự cấp cao và chánh Văn phòng Hợp tác An ninh trực thuộc Phái bộ Hoa Kỳ tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Jakarta, Indonesia. Đại tá Jacky Ly sắp nhận nhiệm vụ mới tại Đông Nam Á với tư cách tùy viên quốc phòng.
Manh Kim
24/4/2021

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

bố và em gái

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


mẹ vợ, dì vợ và phó đề đốc Nguyễn Từ Huấn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


vợ con

Thanked by 1 Member:

#189 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 26/04/2021 - 19:56

CHÚT DUYÊN XƯA CÙNG ÔNG BÙI GIÁNG

Khoảng năm 1978, tôi còn ở Sài Gòn, một hôm tới nhà thằng bạn ở trong xóm đường Trương Tấn Bửu (bây giờ là Trần Huy Liệu thì phải) chơi. Đang đứng lớ ngớ trước nhà bỗng có ông già ốm tong, mặc bộ đồ bà ba trắng, đầu chít khăn, mang một cái túi dơ dáy bước vô nhà.
Ông đến bên hỏi:
-Này con, có biết Kiều không?
Không hiểu sao tôi thông minh đột xuất, hiểu ngay là ông muốn nói đến Thúy Kiều Thúy Vân nên trả lời - Dạ biết.
Ông ngâm liền mấy câu Kiều cho đến câu
“Đầu lòng hai ả tố nga…
Bèn ngưng lại hất đầu ngụ ý bảo tôi đọc tiếp. May quá, tôi không đến nổi tệ, đáp với ông ngay
-Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Ông cười toe toét:
-A thằng này khá. Vậy là con biết đọc hả con?
Ui Trời, ông là ai mà hỏi kỳ! Nhưng vẫn lễ phép trả lời
-Dạ biết.
Ông chỉ phía bên kia đường
-Đọc thử cái bảng đó coi
-“Tổ hợp may mặc phường 24”
Ông dùng cây quạt gõ lên đầu tôi cái "phạch". Hic! may mà quạt giấy.
-Đọc lại nghe coi.
-Tổ hợp may mặc phường 24...
Ông la lên
-Tưởng mày khá ai ngờ cũng ngu quá: TỔ HỢP VÁ MẶC, nghe chưa! Bây giờ làm gì có vải mà may? Chỉ có vá mặc thôi.
Nói xong ông đùng đùng bỏ đi tuốt, vừa đi vừa lảm nhảm mấy chữ tổ hợp vá mặc, mặc vá, vá mặc…
Lát sau thằng bạn từ trong nhà ra, tôi kể chuyện gặp ông già điên, nó cười nói
-Mày gặp ông Bùi Giáng đó. Không biết ông điên thiệt hay là điên...thời đại, nhưng ông quen ba t*o và ở gần đây nên thỉnh thoảng ghé nhà t*o uống nước.

Té ra có duyên gặp nhà thơ Bùi Giáng… mà không biết!
./.
ThaiNC
25/4/2021

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#190 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 26/04/2021 - 20:25

CHUYỆN ĐỜI TÔI

Năm 1972 mẹ tôi mang thai. Đến 17h chiều ngày 27/3 mẹ tôi trở dạ và sanh một bé gái nặng 3kg. Đêm đó tôi ở bệnh viện Trưng Vương ngủ với mẹ. Nửa đêm mẹ kêu đau bụng và bụng cứ chướng to lên . Tôi lên kêu y tá. Họ cho 2 viên thuốc cho mẹ uống nhưng cơn đau không giảm mà còn tăng thêm. Đến gần sáng thì họ đưa mẹ vào phòng cấp cứu , nhưng không cứu kịp. Mẹ tôi bị sót nhau và đúng 11h trưa mẹ tôi qua đời trong nỗi bàng hoàng, đau xót của gia đình tôi . Em gái tôi chưa được bú một giọt sữa mẹ. Bố tôi thì buồn đau không tả xiết. Mẹ tôi đẹp và hiền lắm. Mẹ chết khi vừa tròn 30 tuổi “1942-1972” và có đến 6 người con. Tôi lúc ấy mới 12 tuổi.

Ngày xưa nghe kể mẹ lấy chồng lúc còn nhỏ lắm, khoảng chừng 14-15 tuổi. Mang thai 3-4 lần nhưng đều sanh non và mất. Nghe người ta mách, mẹ xin con nuôi về và đó là chị tôi. Nhờ có chị mà mẹ tôi sanh 5 ngưởi con liền: 4 gái và một trai . Tôi luôn thương chị vì chị hiền và thương chúng tôi lắm .

Mẹ mất. Bố đang là lính. Bố làm tài xế cho một ông Thiếu Tá. Mỗi buổi sáng khỏng 5h là Bố đi, chở theo thằng em trai 3 tuổi. Chị tôi ở nhà nuôi em bé và cũng may chị em tôi khi đó còn bà ngoại nên ngoại cũng đỡ đần thêm .

Ngày tháng dần trôi, em bé đau bệnh triền miên tưởng không qua khỏi. Chị tôi phải nghỉ học để chăm em. Mỗi lần em nằm viện, chị nuôi em. Tôi lên thăm, chị cầm chén cơm ăn mà hai hàng nước mắt nhỏ xuống chén cơm không ngừng. Thương chị nhiều lắm chị hai ơi !

Một hôm, ông Thể là bạn của bố tôi lên bệnh viện thăm em. Ông bảo “Hay cháu đổi sữa khác cho em đi (khi đó em uống sữa SMA). Ông bảo đổi sang sữa Guigo . Chị tôi nghe lời ông và đổi sữa . Lúc đó vào mùa thi nên tôi ở nhà để đi thi. Sau mấy ngày, tôi lên bệnh viện thăm em. Ngạc nhiên chưa, không còn là đứa bé xanh xao, gầy còm mà thay vào đó là một đứa bé mập mạp, trắng trẻo. Tôi bảo chị “có khi nào chị ngủ quên họ đổi em không ?”. Chị bảo: Mày điên à ! Ai lại đi đổi đứa mập mạp lấy đứa ốm yếu làm gì. Do t*o đổi sữa em uống hợp nên không tiêu chảy nữa .

Ngày tháng dần trôi. Hai chị em tôi xin bố mua cho một xe mía hấp để đi bán. Bố thương chị em tôi nhỏ dại nhưng chúng tôi năn nỉ riết bố cũng bằng lòng. Từ đó Bố về sớm để nhóm bếp rồi xếp mía vào cho chị em tôi đi bán. Cứ 16h là hai chị em tôi đẩy xe đi , em bé nhờ ngoại trông , và chị em tôi đẩy xe xuống hãng dệt Vinatexco để bán. Ơn Chúa, chị em tôi bán đắt hàng lắm và mùi vị của mía hấp ngày nào như vẫn thoang thoảng đâu đây.

Khi mẹ tôi mất (1972), bố tôi gà trống nuôi con. Sáng bố đi làm, chở theo em trai 3 tuổi đi cùng. Bố làm xa lắm, ở Tổng Kho Long Bình.
Tôi còn nhớ 5h sáng Bố chở em ra quán cafe của ông Tư Á . Hai Bố con uống cafe rồi Bố chở em đi . Em trai ngày ấy thấy cưng lắm. Ngày Mẹ còn sống, Mẹ mua cho em cái áo khoác lông cừu màu trắng nên mỗi sáng Bố chở em đi em đều khoác chiếc áo đó .

Bố ban ngày đi làm, tối về chạy vài cuốc xe ôm để kiếm thêm tiền lo cho 6 đứa . Mẹ mất, Bố tôi bỗng dưng giỏi lắm. Tối về Bố nấu một mâm bánh đúc có nhiều đậu phộng lắm (sao bây giờ tôi thấy bánh đúc là nhớ Bố , nhưng chưa bao giờ ăn được bánh nào ngon như bố nấu).

Có những hôm Bố về muộn tôi còn nhớ là cũng cứ ra sân ngóng Bố , khi thấy Bố về là tôi hay cằn nhằn: Sao Bố về trễ vậy? Bố cười và bảo: Sao con chưa ngủ. Và trên tay bố là một chùm bánh ú để sáng hôm sau chúng tôi có cái mà ăn.

Một hôm thương Bố quá tôi mới nảy sinh ý định giúp Bố . Thế là trưa đi học về tôi mua khoai lang rồi pha bột, mang bếp dầu và chảo ra sân nhà ông Tráng là bạn Bố tôi ,rồi ngồi chiên bán. Vì còn nhỏ nên sau một lúc chiên hết khoai và bán được một ít bánh, tôi nằm lăn ra sân ngủ quên, đến lúc tỉnh dậy thì... ôi thôi khoai, bếp và chảo không còn vết tích. Tỉnh cả ngủ, tôi thất thểu về nhà... và rồi Bố đang ở nhà... Thì ra Bố đuợc về sớm, thấy tôi ngủ ngon Bố lặng lẽ dọn hết về cho tôi ngủ. Tôi về thấy Bố là hiểu ra mọi chuyện. Mắt bố đỏ hoe. Bố khóc: Con cứ học đi. Bố lo được mà. Rồi hai bố con cùng khóc.

Cuộc sống của Bố con tôi rồi cứ lặng lẽ trôi. Bố mới 35-36 tuổi . Bây giờ nhìn những người trẻ bằng tuổi Bố ngày ấy, mới thấy Bố tuyệt vời làm sao. Vợ chết 6 đứa con, hy sinh hết để các con được no đủ. Tối, Bố và 6 chị em tôi đều nằm chung cùng nhau. Bố nằm giữa và mỗi bên ba đứa. Nhiều lúc nghĩ không ra ,chật vậy mà cứ chen chúc nhau mà nằm.

Một hôm... sau khi đi bán về mà như có linh tính, mọi ngày bán về trễ , hôm đó sao hết sớm. Hai chị em tôi về. Đến nhà thì không thấy bố ngồi đợi như mọi khi . Hai chị em vào nhà gọi inh ỏi... Bố ơi... Bố ơi... Một sự im lặng đáng sợ. Khi vào trong nhà, nhìn trên giường, Bố tôi nằm đó bất động. Tôi tưởng Bố giỡn vì Bố tôi hay giỡn nhây, làm bộ chết nên tôi cũng tưởng như mọi khi. Tôi vạch mắt, bố im lìm. Tôi lại thọc léc (Bố chỉ chịu thua khi thọc léc). Nhưng lần này bố vẫn nằm im. Tôi lấy tay sờ lên mũi và bụng, thì hoàn toàn không thấy Bố thở. Thế là tôi oà lên khóc và chạy sang gọi bà ngoại cùng các bác. Khi mọi người sang thay cho Bố bộ quần áo để đi nhà thương thì Bố tôi thở một cái thật mạnh. Tôi la lên “Bố con không chết ,Bố con còn thở”, nhưng tôi đâu ngờ rằng đó là do Bố chờ chị em tôi về, Bố mới chịu ra đi. Ai cũng nói Bố chờ chúng tôi . Khi xe đưa Bố lên Tổng Y Viện Cộng Hoà. Các bác sĩ khám và cho biết Bố tôi chết ở nhà rồi (bây giờ họ gọi là đột quỵ). Đó là ngày 28/3/1974. Một ngày mà chị em tôi không thể nào quên.

Bố chết... thật sao bố. Sao bố đành lòng bỏ lũ con thơ dại mà đi cùng mẹ. Chị lớn 16, con 14, còn bốn em con đứa 12, đứa 10, em trai 5 tuổi và em út 2 tuổi. Trời đất sụp đổ, tim con vỡ vụn, nhìn 4 đứa em mà đau đớn... con gào khóc như điên dại. Ai cũng bảo tôi sao khôn thế, khóc kể làm ai cũng phải khóc. Nghe mọi người kể lại tôi khóc: “Bố ơi, bố bảo bố thương con, con muốn gì bố cũng cho, bây giờ con muốn bố sống lại sao bố không dậy bố ơi”

Vì Bố là lính nên đơn vị đưa Bố Lên NTQĐ để khám nghiệm tử thi . Nhưng các Bác tôi không chịu và xin đưa Bố về nhà để mai táng. Đám tang Bố, ai thấy cũng ngậm ngùi. Bố chết khi tuổi đời còn rất trẻ, 36 tuổi, cái tuổi mà ông bà xưa hay nói “trai 30 tuổi đang xuân”. Thế mà ông Trời khéo đùa, cướp Bố tôi đi khi 6 chị em tôi còn quá nhỏ ,em trai tôi 5 tuổi còn bé út lên 2. Nhìn 6 đứa trẻ đầu chít khăn tang đứa nào cũng khóc vật vã, còn hai em nhỏ, nhất là em trai cứ lại kêu Bố dậy mà không ai cầm được nước mắt...

Sau khi Bố mất 6 chị em tôi sống cùng nhau. Bà Ngoại tôi cũng sang ở cùng coi các em để chị em tôi đi bán. Tôi luôn nhớ ơn ông bà Thiếu tá Đinh Văn Tiết. (Có lẽ ông bà đã định cư tại một nước nào đó. Chúng tôi chỉ biết cầu xin cho ông bà luôn vui khoẻ và hạnh phúc). Khi Bố tôi mất, cứ hàng tháng ông bà lại cho xe chở gạo và các loại nhu yếu phẩm xuống cho chúng tôi. Chị em tôi chỉ buôn bán rồi mua thức ăn thêm cho các em nên cuộc sống cũng ổn .Cứ ngỡ cuộc sống như vậy mãi... cho đến một ngày...

Đó là cái ngày mà chị em tôi không bao giờ quên. Sáng sớm hôm đó, tiếng súng đạn nổ vang trời. Sáu chị em tôi và Ngoại theo dòng người chạy ngược xuống Tân Phú. Chị em bồng bế nhau vừa chạy vừa sợ... Khi tới ruộng rau muống thì thấy có một bà Sơ và một ông chăn ngựa bị bom chết trên đường . Chúng tôi rất sợ và càng lo chạy cho nhanh . Rồi cũng đến lúc ghé vào nhà người bà con của bà Ngoại . Ghé vào đó tá túc một ngày. Khi không nghe tiếng súng thì mọi người kéo nhau về. Đó là ngày “giải phóng”...

Sau ngày ấy... chị em tôi không biết vì sao mà Ngoại cùng cậu mợ về hết Rạch Giá ...là quê của mợ tôi. Còn lại 6 chị em tôi đùm bọc nhau mà sống. Tôi và chị vẫn đi bán mía hấp... Vì thời thế thay đổi nên công việc buôn bán cũng rất khó khăn . Rồi các ông ở phường vào khuyên chúng tôi đi Kinh tế mới. Sau mấy lần nghe họ nói ,chúng tôi nghĩ rằng trước sau cũng đi. Thôi thì về thăm bà ngoại một lần, sợ đi Kinh tế mới sẽ không có điều kiện về thăm Ngoại .

Về kinh B thăm Ngoại và nói rõ ý định là thăm ngoại lần này rồi đi KTM ko biết bao giờ gặp lại. Ngoại tôi buồn và khóc. Ngoại cũng nghèo lắm, chẳng có gì mà giúp chúng tôi. Sau một đêm bàn luận, cuối cùng Cậu mợ tôi có ý định đưa hết 6 chị em tôi về kinh B ở. Chúng tôi cũng mừng vì dù sao về quê còn có Ngoại và Cậu Mợ . Thế là một cuộc đổi đời bắt đầu từ đây .

Về Sài Gòn, hai chị em tôi gọi người vào tháo hết tôn, cây , cửa để bán. Khi họ đến để gỡ tôn và đập cửa ,tôi nghe nứơc mắt chảy nguợc , vì đây là căn nhà Bố Mẹ tôi tạo dựng bằng mồ hôi nuớc mắt, bây giờ thì tan hoang. Nhà cửa lúc đó ai không ở thì bỏ đi vì không có ai mua. Do thời gian quá lâu và còn nhỏ tôi ko nhớ rõ số tiền là bao nhiêu ,chỉ biết rằng khi về kinh B thì chị của Mợ tôi chia lại cho chị em tôi 1/4 lô đất (một mẫu chia làm 4).Với số tiền có được, chị em tôi trả và còn thiếu lại quy ra tiền là 70 giạ lúa...

Vụ mùa năm đó gọi là trúng mùa, ruộng nhà tôi sau khi gặt xong thì đong được đúng 70 giạ lúa, bằng với số nợ lại của chủ đất. Thế là chúng tôi xin trả trước cho bác 50 giạ , còn thiếu lại 20 giạ sang năm trả tiếp.

Ở quê tôi tất cả đều trông vào hột lúa ,vì vậy 6 chị em tôi cả một năm ròng chỉ có 20 giạ lúa đến ăn còn ko đủ chứ nói gì đến cái tiêu pha ....Ngày lại ngày chị em tôi mỗi ngày chỉ được một bữa cơm mà cũng không đủ no. Cơm chỉ có chuối xanh chấm mắm tôm là chính vì ở Sài Gòn nào giờ , có biết gì đâu. Ngoại và cậu mợ cũng nghèo và ruộng cũng ít , nên không giúp gì được.

Thương Ngoại tôi lắm , vì thương các cháu nên cứ chủ nhật là Ngoại dẫn 6 chị em tôi đi đến nhà họ hàng để kiếm bữa cơm cho các cháu mồ côi. Giờ nghĩ lại tôi rớt nước mắt, thương Ngoại quá vì các cháu Ngoại quên cả sĩ diện để các cháu được bữa cơm no.

Ngày ấy cứ 3 tháng thì được cái phiếu đi mua vải, nhưng khổ nỗi nhà 5 chị em gái mà vải mua chỉ được 3 quần. Hai chị lớn nhường cho các em, lâu lâu mới dám may cho mình. Thế là quần rách thì Ngoại vá cho, mà tay nghề Ngoại khéo lắm. Ngoại vá rất khéo nên mặc cũng không sao. Tội nghiệp Ngoại mỗi lần vá chằng vá đụp cái quần của chị em tôi Ngoại hay nói câu: Quần lĩnh váy chị không bằng tiền chỉ váy tôi.

Về quê ngày ấy tôi là một cô bé 16 tuổi, cái tuổi trăng tròn. Tôi có làn da trắng trẻo, bàn tay so với những người làm ruộng thì rất đẹp, mọi người hay gọi tôi là Dung Saigon. Không biết có bao nhiêu thanh niên tán tỉnh. Điều đặc biệt ở quê là cưới vợ, lấy chồng rất sớm. Ai 20 tuổi mà chưa lập gia đình là đã bị liệt vào hàng ế ẩm. Một điều đau khổ cho gia đình tôi là họ rất coi trọng vấn đề “môn đăng hộ đối” trong khi gia đình tôi là thuộc hộ nghèo bền vững.

Năm đó khi trả nợ 50 giạ lúa xong thì chị em tôi đói lắm. Thế là tôi và chị bàn nhau đi bán bún. Cứ 5h sáng, khi chuông nhà thờ đổ, chị em tôi đi từ nhà ra chỗ lấy bún là 5 km. Vào lấy 15 kg bún đội lên đầu ,đi ngang chợ mua 4 củ khoai lang, là lương thực của hai chị em, cho một ngày dài từ 5h sáng đến 17h chiều. Sáng mỗi đứa một củ và trưa một củ còn nước uống thì xin dọc đường .

Chặng đường đi bán mới khủng khiếp làm sao, đi từ kinh của tôi lên tới kinh 4 khoảng chừng 10km rồi đội vào trong kinh 5km nữa mới bán xong 15kg bún. Ngặt nỗi ở các kinh ai cũng chỉ trông vào lúa nên ít có tiền mặt. Vì vậy thay vì bán xong bún thì tôi sẽ không phải đội nữa , nhưng tất cả những người mua bún đều đổi gạo để lấy bún nên khi về tôi đội còn nặng hơn lúc đi (vì thế hậu quả bây giờ là tôi bị thụt hết một đốt sống cổ nên cổ tôi ngắn hơn mọi người). Khi về đến hàng bún giao lại gạo cho họ thì số gạo dư ra là tiền công chị em tôi kiếm được trong ngày. Hôm nào khi về đến nhà cũng là lúc mặt trời lặn. Sáu chị em lại được một bữa cơm chung. Các em cứ huyên thuyên kể hết chuyện này đến chuyện khác .

Ở gần nhà tôi có anh tên D. Anh rất thích tôi, anh con nhà giầu có, tuy con nhà giầu nhưng của bố mẹ nên anh cũng ko có tiền ,khi quen tôi mỗi lầ muốn mua gì là anh đi làm đổi công cho người ta rồi lấy công là những ký đậu phộng... Tôi nhớ những buổi tối nhà tôi đọc kinh tối ,anh luồn tay vào cửa sổ để bịch đậu phộng vào rồi đi về, khi nào nhà tôi đọc kinh xong là anh qua chơi ...

Rồi chúng tôi luộc đậu phộng lên cùng ăn với nhau. Cho đến một hôm anh bảo tôi để anh về thưa với Bố Mẹ xin hỏi cưới tôi. Tôi thì thật sự chưa nghĩ tới chuyện lập gia đình vì một đàn em ,nếu tôi đi lấy chồng thì các em sẽ ra sao ...???Nhưng... một hôm mợ tôi nghe người bên nhà anh nói : Anh về xin bố mẹ cho cưới tôi nhưng Bố anh nói: “Mày lấy đám nào có cha mẹ thì lấy. Nó mồ côi mày lấy về cho khổ à. t*o cấm”

Khi nghe thấy thế, lòng tự trọng nổi lên, tối hôm đó khi anh sang nhà ,tôi đã dứt khoát nói lời chia tay với anh. ...Anh buồn và từ đó anh uống rượu, say sưa suốt và làm phiền tôi một thời gian dài. Sau này biết không thể níu kéo, vì tự ái anh không sang nhà nữa nhưng anh cũng trở thành một người rất khác, hay say rượu và không còn vẻ thư sinh của ngày nào.

Thời gian sau đi bán bún cực quá, chị em tôi ra chợ lấy cá đi bán. Người ta biết gánh thì đỡ , chị em tôi mà gánh đôi quang gánh thì vai đau không gánh được nên lại phải đội, mà cá thì cái mùi tanh lắm, nó cứ ám vào người vì thế dân gian có câu “Nằm đất với cô hàng hương , còn hơn nằm giường với cô hàng cá” là rất đúng ....

Một thời gian sau... tôi quen anh tên H. (là chồng tôi bây giờ) nhưng chúng tôi sống trong một chuỗi ngày dài đau khổ đầy nước mắt đến hơn 30 năm sau khi đã có cháu ngoại thì chúng tôi mới chính thức trở thành vợ chồng.

Trong một dịp tình cờ hai Ca Đoàn đi ăn mừng Thánh Bổn Mạng, anh gặp tôi. Sau một hồi nói chuyện anh hỏi thăm nhà, và từ đó cứ mỗi lúc lên đèn là anh có mặt ,dù nhà anh và nhà tôi cách nhau 4km mà đường đất trơn trượt ,lúc đó chưa có điện ,nhà nhà xài đèn dầu, nên đường đi tối lắm và toàn đi bộ ...

Tôi quên chưa kể về quê tôi... ở giữa là giòng sông và hai bên là nhà ở . Nhà nào cũng có cái cầu ao trước nhà. Mọi việc ăn... uống... tắm giặt... đều ở con sông ấy, còn đường đi thì nhỏ và đất đen nên rất trơn khi mưa xuống.

Vậy mà tối nào anh cũng vào ,có những hôm trời mưa khi vào đến nhà thì áo quần ướt và lấm lem bùn đất, anh bảo do bị té... Nhà tôi nghèo, nhà tranh vách đất ,trong nhà chỉ có một cái giường, một cái bàn gỗ và hai cái ghế. Cộng một cái gọi là tủ nhưng bằng carton để 6 chị em đựng quần áo .Mà quần áo thì có bao nhiêu đâu nên vẫn rộng.

Nhưng anh cũng không chê nhà tôi nghèo, vẫn ngày ngày đi vào và có khi còn đi ra ruộng giúp chị em tôi làm lúa... ở quê có một điều mà ở Sài Gòn chưa thấy, đó là mọi người hay dòm ngó và bình luận chuyện người khác.... một nhà có chuyện gì thì chỉ một vài giờ sau cả làng đều biết...

Anh thương tôi và tôi cũng mến anh, vì anh nhìn bên ngoài rất thư sinh (anh chơi đàn cổ điển giỏi nhất kinh tôi ở ngày ấy) và đặc biệt anh rất hiền. Khi anh nói muốn cưới tôi thì tôi nói với anh: “Em không có Bố Mẹ nên muốn người nào về ở cùng để lo cho các em , chứ nếu đi làm dâu thì em ko lấy”. Vì thương tôi nên anh đồng ý với quyết định của tôi.

Nhưng.... có lẽ là định mệnh. Khi gia đình anh nghe thấy anh đòi cưới tôi... cơn lôi đình của Bố anh nổi lên. Bố anh rất gia trưởng, Mẹ anh và các con ai cũng khiếp sợ vì những trận đòn thừa sống thiếu chết của ông. (Xin lỗi vong linh Ba khi con kể lại câu chuyện này).

Thế rồi Ba anh đưa ra một quyết định nhưng về sau tôi biết là do Ba anh đã hứa hẹn từ trước, đó là anh sẽ kết hôn với một người con gái. Cô ấy là con một người bạn của Ba anh và gia thế thì rất khá...

Anh phản đối quyết liệt , nhưng Ba anh rất gia trưởng nên ông cứ tự ý xếp đặt theo ý mình. Mỗi tối anh vẫn vào nhà mình , nhưng dấu không cho mình biết chuyện Ba anh xếp đặt như thế.

Có một hôm, bạn của anh vào nhà mình chơi và kể chuyện ,anh bị Ba đánh và bắt quỳ ở trên bàn ...mình hỏi anh có biết vì sao anh bị phạt không. Anh ấy mới kể cho mình nghe. Vì cãi lời Ba trong việc cưới vợ... Buồn thật nhiều ,cũng vì cái nghèo mà ai cũng không muốn cho con họ cưới vì sợ con họ khổ .

Rồi cũng vì chữ hiếu, vì thương mẹ anh và cũng vì những lần bị đòn và bị phạt ,anh nói với Ba anh: “Ba bắt con cưới thì con cưới nhưng có chuyện gì xảy ra Ba phải chịu trách nhiệm”. Ba anh nói : “Mày cưới đi có gì t*o chịu hết...”.

Buổi sáng hôm đó tôi ngồi trong nhà ngó ra cửa sổ ,đang nhìn mông lung ra dòng sông phía trước thì thấy đi trước là Ba anh rồi đến người anh rể và anh. Tay anh xách một cái giỏ cói, đi vào phía trong. Vì ở cùng con kinh nên chuyện anh đi hỏi vợ lan ra rất nhanh (anh sợ tôi buồn nên dấu).

Tối đó anh vào tôi cũng nói cho anh nghe là tôi thấy gia đình anh đi vào trong đó... Anh nhìn tôi... rồi khóc...
Anh nói anh chỉ đi đặt trầu thôi cho Ba anh khỏi la mắng chứ anh không cưới ...Từ ngày đặt trầu cho đến ngày cưới là một năm rưỡi. Anh ko một lần vào thăm cô ấy. Ba cô ấy là bạn thân của ba anh .Một hôm ông bố vợ (chưa cưới) của anh mời Ba anh, bà nội anh và bảo cả anh ra nhà có chuyện muốn nói. Ông T là bố vợ nói với Ba anh:
- Tôi nghe nói thằng H con ông nó nói có chết nó cũng ko lấy con A con tôi!
Ba anh nói:
- Chuyện trẻ con , nó nói gì nó nói, người lớn mình cứ tiến hành .Ngày ấy anh 24 tuổi nên đành bất lực nghẹn ngào .

Càng gần ngày cưới anh vô nhà tôi nhiều hơn. Tôi cũng nói với anh: Em và anh không có duyên nợ, anh đi cưới vợ rồi em cũng đi lấy chồng. Miệng nói thế chứ trong lòng rướm máu. Riêng anh một bên tình , một bên hiếu thật đau lòng ...

Rồi cái ngày ấy cũng đến. Trước đó anh vào và nói với tôi ,cưới anh tôi hứa sẽ có mặt nếu tôi không đến dự anh không làm đám cưới ....Ngày ấy tuy biết yêu nhưng còn con nít lắm, chỉ nghĩ thôi thì cứ đi rồi mình cũng sẽ lấy chồng... đâu ngờ khi thật sự mất nhau mới biết đau đớn và buồn tủi thế nào.

Tôi nhớ như một thước phim quay chậm về dĩ vãng. Chiều đó năm 1978. Ngày lễ cưới của anh. Tôi và cô bạn thân tên Hướng cùng đi lễ cưới của anh. Khi đi bộ ra tới nhà anh thì thấy anh đứng cầm cái áo veston đen vắt lên vai. Khi thấy chúng tôi đến anh mừng và đi cùng chúng tôi ra nhà cô dâu đón cô dâu ra nhà thờ để làm lễ cưới, mặc cho gia đình anh mắt chữ A mồm chữ O ngạc nhiên và không hài lòng anh cũng kệ, không chịu đi cùng gia đình.... và trên đường đi anh bảo tôi “Ra nhà thờ ,nếu Cha hỏi ,anh nói anh bị ép buộc”.

Vì luật của đạo Công Giáo nếu bị Cha Mẹ ép buộc thì Thánh Lễ Hôn Phối sẽ không thành trước mặt Giáo Hội. Tôi không chịu và nói nếu anh làm vậy Ba anh sẽ giết anh chết vì làm nhục ông trước mặt mọi người... Ra đến nhà cô dâu, anh kiếm đâu ra cái quạt tay, rồi cứ thế quạt cho tôi và cô bạn ,mặc cho tôi tỏ thái độ.

Rồi khi lễ xong tôi và cô bạn về luôn. Về được một lúc tôi thấy anh đã có mặt tại nhà... tôi hỏi: “Ủa sao anh không ở đó mà lại về đây (vì bình thường bên đạo Công giáo, lễ cưới xong họ nhà gái sẽ đãi tiệc). Anh nói : Anh không thấy em đâu nên hỏi chị Xuyên (là chị trong ca đoàn) có thấy em đâu không? Chị nói thấy D và H về rồi . Vậy là anh cũng bỏ về và vào nhà tôi luôn...

Mặc cho tôi khuyên can, chị hai tôi cũng nói nhiều lắm ,Anh ngồi đó ko biết nói gì ,chỉ khóc và khóc thật nhiều... cuối cùng tôi cũng dứt khoát . Thôi duyên nợ mình coi như hết. Anh về đi. Rồi em cũng sẽ yên ổn ...

Ngày hôm sau đám cưới anh xong, tối đến tôi cũng lặng lẽ ngồi buồn ...thì bỗng lại thấy anh vào... Lúc này thì thấy lo rồi đó , vì bây giờ anh là người đã có vợ đâu còn cái quyền tự do đi lại nhà tôi....thế là Ngoại tôi ,chị tôi và tôi phải nói hết lời anh mới chịu về và cứ như thế một thời gian...

Và rồi một hôm tôi mới đi bán về khoảng chừng 17h thì thấy Mẹ anh và vợ anh kéo vào nhà tôi... Sau một hồi chửi bới, tôi còn nhớ mãi chị ta nói với tôi:
-t*o cấm mày không cho chồng t*o bước vào đây , bộ nhà mày là nhà THỔ hả?

Tự ái rồi nha. Tôi trả lời :
-Tôi tưởng anh H có ăn có học, lấy được người vợ cũng có ăn học ,ai ngờ lấy phải người vô học như chị. Mời chị ra khỏi nhà tôi...

Thế là Mẹ anh đẩy chị ấy ra cửa và vào nói chuyện với tôi ...

Mấy ngày sau tôi bàn với chị và quyết tâm bỏ về Saigon ,và tôi nhờ một bà trong xóm cũ xin cho tôi đi làm mướn cho một gia đình ở Ngã Tư Bảy Hiền. Tôi đã xin ứng trước 6 tháng lương gởi về cho chị nuôi các em... còn tôi ở lại với bao nhiêu nỗi nhọc nhằn. Dù rằng cô chú rất thương tôi, nhưng cô chú có 6 người con cứ san sát nhau nhỏ lắm. Mấy bé đêm còn đái dầm. Khi tiếng xe buýt đàu tiên nổ máy (vì nhà cô ở ngay bên bến xe buýt) là tôi dậy dọn dẹp nhà cửa và giặt một thau quần áo thật to. Nhà cô ngày ấy thu mua quần áo cũ về rồi cắt lại nên mỗi ngày tôi phải nấu một nồi bột năng thật to ,rồi nhúng những cái bao cát vào đem phơi khô để cô cắt làm cổ áo... mà bột còn nóng nên tay tôi đỏ và về sau nứt hết các khe tay... chị tôi lên thăm chỉ biết khóc và nói tôi về, nhưng tiền lấy 6 tháng rồi nên phải làm cho hết.

Chị tôi kể: Anh lên Saigon tìm tôi mà không gặp, rồi cứ hai, ba ngày lại vào nhà xem tôi có về không? Tội lắm ....

Sau 6 tháng, tôi không làm nữa nhưng cô chủ thì không cho về. Cô nói muốn cưới tôi cho con trai cô... nhưng tôi dứt khoát về vì nhớ các em quá ...không biết bao đêm tôi thương nhớ các em và khóc thầm ... Vì anh, vì gia đình anh ,tôi đành bỏ các em để cho anh quên tôi....

Về đến nhà ,thì ngay tối hôm đó anh vào ...tôi cố gắng làm mặt lạnh ,làm như mình đã quên anh và nói anh về đi , nhưng anh ngồi đó rồi lại khóc... khuya lắm mới chịu về...

Ở quê chuyện của nhà nào thì cả xóm cùng biết nên chuyện của tôi thì ồn ào xóm làn. Gia đình anh thì chẳng để chị em tôi yên... cứ vài ngày lại vào chửi bới ...và đỉnh điểm khi Bố anh và vợ anh vào chửi bới. Không biết ai nói mà anh biết, khi anh vào nhà tôi, Bố anh chửi và bắt anh về, anh nói “Ai đụng vào D thì bước qua xác chết của con”.

Một câu nói mà tôi ấn tượng nhất trong cuộc đời . Nhưng bố anh là người độc đoán và rất gia trưởng ,nên đã cầm cái cây nhà tôi hay chèn cửa, để ở góc nhà và đập xuống trúng ngay đầu tôi, máu chảy... Tôi choáng váng còn anh thì như người điên... Nhà anh chắc cũng hoảng nên kéo nhau về hết. Ở gần nhà có ông bác sĩ làm trên huyện, may sao ông có nhà và mọi người gọi ông đến rửa vết thương và băng bó cho tôi.

Rất nhiều những chuyện đau lòng nhưng tôi chỉ kể một chút như thế... Gia đình tôi sống khép lại như con rùa rụt cổ lại... vì bước ra khỏi nhà là cảm thấy mắc cỡ và tủi nhục...

Cho đến một hôm anh vào và bảo tôi :Anh và vợ đã chấp nhận chia tay. Và chị ấy ra điều kiện với anh là tất cả những gì trong gia đình là của chị, nếu chọn tôi thì phải ra đi với hai bàn tay trắng. Thế là anh chấp nhận...

Chúng tôi sống không chính thức với nhau như thế ,tuy nói là bỏ nhau nhưng gia đình anh vẫn vào làm phiền chị em tôi bằng nhiều cách...Cuối cùng chúng tôi bàn với chị tôi ...rồi tôi và anh bỏ đi về Long Thành ở cùng bác tôi... khi đó tôi có thai được 6 tháng.

Chiị tôi và các em ở lại . Truớc đó tôi có bàn với chị tôi sẽ bán đất duới đó và về Long Thành. Khi tôi đi rồi chị tôi bán đất cho thím Am ở gần nhà với số tiền là BA NGÀN TÁM năm 1980. Tôi nhờ bác tôi (bác là anh ruột mẹ tôi) về quê để giữ hộ tiền ,và đưa chị và các em tôi lên dùm. Vì chị tôi tính tình hiền và không lanh, nên tôi sợ... lại còn 4 đứa em nữa nhỡ sơ ý lạc đứa nào thì chết ...

Bác tôi về quê đưa chị em tôi lên bình an. Chị em gặp nhau mừng tủi... chúng tôi sống chung cùng gia đình bác được một tháng thì xin được một cái nhà gần đó họ bỏ đi... Khi chị em tôi xin hai bác ra ở riêng và xin lại số tiền bán đất ,thì hỡi ơi bác tôi đã tiêu hết, KHÔNG CÒN MỘT ĐỒNG. Không còn gì để nói nỗi phẫn uất và căm hận .Về sau chúng tôi mới biết bác tôi nợ như chúa chổm ở đó ,nên số tiền của nhà tôi đem ra bác tôi đã đem đi trả nợ hết... (hận này cho đến chết cũng không quên).

Sáu chị em tôi và chồng tôi sống những ngày đói khổ. Khoai mì họ trồng làm hàng rào cũng phải đào lên ăn, ăn xong say ói mật xanh mật vàng, nhất là tôi bầu to nên người cứ mệt lả (Nhớ lại tôi ân hận và thương các em vì tôi mà ra nông nỗi này).

Ở đó mọi người đều khổ ,muốn đi làm mướn cũng không có nhiều việc. Chồng tôi ai muớn gì làm đó cũng không đủ ăn vì rất ít việc. Thế là chị em tôi theo những người gần đấy đi làm rẫy trong Cẩm Đường. Cách chỗ tôi ở 15km.Sáng đi chiều về... vào đó tự phá rừng làm rẫy ...và khi được một miếng đất hơi lớn ,chị em tôi trồng bắp đỏ và khoai mì. Chiều về em trai tôi tuy nhỏ nhưng cũng biết đội một bao rau dền gai về để luộc... thay cơm.

Chị em tôi đói triền miên, lên nhà bác đòi tiền chỉ nhận dc những câu xin lỗi của bác tôi (bác trai). Còn bác gái thấy chị em tôi nhỏ nên cứ tỉnh bơ như không biết gì. Vì bác trai là người cầm tiền nên bác gái vô can... thói đời đen bạc đến thế là cùng ...

Một hôm chồng tôi và em gái út 7 tuổi đi vào rẫy ,lúc đó tôi có bầu được hơn 7 tháng. Còn mấy chị em kia ở trong rẫy coi rẫy. Tôi bảo anh đi về rẫy nào có bắp nếp bẻ cho em mấy trái vì bắp nhà tôi toàn bắp đỏ, cứng lắm. Tối đó chờ mãi ko thấy anh về. Tôi nằm trên võng bồn chồn lo lắng. Nhà thì thắp cái đèn dầu leo lét, ngoài trời tối như mực... Khoảng chừng nửa đêm nghe ngoài đường có tiếng chó sủa, rồi tiếng chân người, tôi mừng vì nghĩ anh về . Rồi có tiếng người lạ gọi tên tôi, tôi thưa, thì nghe họ nói: Chồng chị đi bẻ bắp của người ta bị họ đánh gần chết. Mở cửa ra tôi chết sững... anh được anh Cảnh là công an xã dìu vào, bên cạnh là em gái tôi mặt xanh như tàu lá chuối vì sợ và vì đói.

Họ chém vào chân tay anh ,dù anh có nói thế nào chăng nữa... (nhưng vì trước đó họ bị bẻ trộm rồi )nên họ nghĩ anh là thủ phạm những lần trước đó . Tội nghiệp anh và em gái vì tôi mà chịu muôn ngàn cay đắng... mấy ngày sau anh bị sốt. Tôi luôn trân trọng và nhớ ơn hai người ở ngoài đó. Đó là bà Nã và bà Trùm Thọ ở gần nhà. Tôi sẽ kể về họ vào đoạn sau.

Hàng xóm cũng thương chị em tôi , nhưng cùng cảnh khổ nên không giúp gì được. Còn cái người đánh chồng tôi ,sau đó được công an xã mời lên làm việc... và khi biết đã đánh lầm chồng tôi ,họ cũng vào xin lỗi và đem mật gấu vào cho chồng tôi xức cho tan máu bầm... rồi không biết vì sao chuyện đó về đến tai Ba anh. Ba anh lặn lội tìm ra tới nhà tôi rồi Ba anh nói: “Bây giờ bác (vẫn gọi bác cháu) đưa thg H về dưới đó cho nó đi làm kiếm tiền lên lo cho cháu , chứ cháu sắp sanh rồi, mà ở đây không có công việc.

Tôi biết dù tức giận anh, nhưng làm Cha Mẹ ai cũng xót con cháu,ông cũng muốn con sung sướng nên ép con lấy vợ ,để giờ ra nông nỗi này ông buồn. Tôi nghe ông nói vậy cũng không biết nói gì, chỉ nói với ông để tuỳ anh quyết định. Tối đó anh nói với tôi để anh về rồi xin mẹ anh ít tiền lên cho tôi đi sanh. Tôi nói anh rằng mình bỏ đi nếu vinh quang thì về ,còn về xin tiền tôi không chịu. Anh nói vậy để anh về nhà mấy bữa rồi tính ...

Anh về được một tuần thì tôi trở dạ ...đêm đó tôi thấy khó chịu vì bụng cứ âm ỉ đau. Tôi nghĩ là đau bụng nóng vì cả mấy ngày không có hột cơm ,ăn khoai mì khô và bắp khô rang nên nóng ,nhưng càng lúc cơn đau càng nhiều ,tôi gọi chị ,thế là chị tôi và em trai tôi cầm cái đèn bão ,còn chị thì dắt tôi đi... đoạn đường từ nhà ra nhà bảo sanh xa lắm ,ai sanh dễ chắc sanh dọc đường.

Tôi quên chưa kể lúc đó tôi bị đau mắt hột nặng lắm , mà ko có tiền đi khám ,chỉ biết kiếm lá trầu không nấu nước để xông, mà bệnh càng ngày càng nặng ,mắt cứ phải nhắm lại , mở ra là nước mắt chảy ào ào và cộm lắm ko mở được.

Chị em tôi đi từ lúc 2-3h sáng mà đến được trạm xá là 6h sáng. Tôi đau bụng và khát nước khô hết cổ, may sao có một chị sanh trước ở đó nên chị tôi xin cho tôi miếng nước để uống. Nói về bà trùm Thọ . Khi nghe tin tôi đi sanh mà ko có tiền, bà đưa cho chị tôi 10 đồng để mua gì cho tôi ăn. Tôi luôn nhớ ơn bà. Và bà hay cho cô con gái sang chơi với tôi khi tôi đã về nhà .

Nằm trong trạm xá , tôi khóc thật nhiều, phần vì đói, phần vì thiếu ngủ ...và một phần lớn vì không có chồng. Tôi không có sức để rặn... nhờ cô Vân và Cô Định hai nữ hộ sinh rất có tâm cứ an ủi tôi: Cố lên em, em không cố là con em bị ngộp đấy ....

Chị tôi nhờ có tiền bà Trùm Thọ cho nên mua cho tôi được ly sữa. Những cơn đau xé thịt xé da...vả mồ hôi ...tôi cắn răng chịu đựng ...chân tay thì run lẩy bẩy, tôi không biết đói chỉ khát nước... Tôi nghĩ đến Mẹ tôi khi sanh em rồi mất ,tôi bỗng sợ hãi vì thấy mình ko có chút sinh lực nào ...Có khi nào mình giống mẹ không? Chị tôi khóc vừa vuốt đầu tôi vừa nói cố lên em.

Nhờ cô Vân cứ đứng bên an ủi và vỗ về, tôi bỗng bừng tỉnh và cố gắng hit những hơi thật sâu theo sự hướng dẫn của cô... và rồi niềm vui vỡ oà khi con trai ra đời... nặng 2kg9
Vì tôi rặn không ra, nên khi ra đời đầu con tôi dài như đầu con ngựa... nhưng nhờ các ông bà chỉ nên tôi xoa đầu cho con trong tháng là tròn vo (hay thiệt)

Đến trưa em gái tôi ra thăm ,tay em xách ca gì tôi ko biết... nhưng em bảo tôi “không có cơm đâu ,bắp đấy đừng la lớn, bư lắm. (Bư là quê lắm đó).

Nằm trạm xá 3 ngày ăn toàn bắp và mì... vậy mà ko có tiền đóng viện phí ...tôi khóc hai mắt sưng húp lên. Cô Vân cứ bảo tôi “đừng khóc, khóc nhiều lên máu sản hậu và mù mắt đấy”. Tôi không dám nói cho cô nghe mình không có tiền đóng viện phí. Nhưng không biết ai nói mà ông Chi là bí thư của ấp 4 nơi tôi ở biết chuyện và chiều đó ông đem tiền ra đóng viện phí và chở hai mẹ con tôi về tận nhà. Tôi luôn nhớ ơn ông... ông là ông bụt của mẹ con tôi.

Về nhà tuần đầu tiên, chị và hai em nhỏ vào rẫy để thu hoạch bắp. Hai em gaí kế tôi thì đi làm muớn cho nguời ta để kiếm cơm ăn, chứ không có lương. Tôi và con ở nhà một mình. Rồi chị tôi gởi nhờ xe những người ở gần rẫy một bao bắp về. Tôi gởi con cho bà trùm Thọ và mượn bà cái xe đạp. Tuy mới sanh có một tuần mà tôi phải chở bao bắp ra chợ cách 4 cây số để bán và mua gạo và thức ăn cho chị em trong rẫy. Đó là những ngày chúng tôi có một ít gạo độn mì hoặc khoai lang khô và ít cá kho mặn... rẫy cũng ko có nhiều nên cũng chỉ có vài bao bắp ăn dè sẻn cũng chỉ được vài tuần... thương em trai... mỗi bữa cơm em vội vàng lấy chén bới cho tôi miếng cơm không độn khoai nhưng tôi nói chị thích ăn khoai mì. Nó không chịu và nói chị ăn đi cho thằng Phong nó bú.

Cái bệnh đau mắt sau khi tôi sanh nó nặng hơn nhiều, có những ngày tôi chỉ mò con ,ko mở dc mắt ,đến bữa ăn em tôi lấy gì tôi ăn nấy, cứ ngỡ bị mù... chị tôi lại đi kiếm rau răm về cho tôi xông...

Khi con được 3 tuần, chị em tôi lại đói. Đói ba ngày không có gì ăn ,cứ luộc rau dền ăn cho đỡ... Bất lực, nuôi con nhỏ mà không có ăn. Mẹ đói... con khát sữa... thế là hai chị em tôi nghĩ đến việc tự tử cả gia đình. Kế hoạch lập ra... hai chị em tôi ra chợ cầm quần áo (lúc đó năm 1981) hay có vụ cầm và bán quần áo cũ.

Tụi tôi tính khi cầm quần áo sẽ mua một con gà ,một ký gạo và một gói thuốc chuột, về nấu một nồi cháo gà, cho thuốc vào rồi cho 4 đứa em ăn chết trước ,rồi cho 4 em nằm trên giường còn hai chị em và con tôi ăn sau rồi nằm hai bên.... để chấm dứt một cuộc sống đầy đói khổ.

Khi đi cầm quần áo về chưa đi mua gì hết... thì thấy hai em nhỏ của tôi chơi lò cò, đói vậy mà sao hai em vô tư thế... rất thương... Hai chị em tôi bừng tỉnh và nghĩ: “Vì sao Bố Mẹ để các em cho mình mà mình đành đoạn giết các em. Bây giờ mình nấu cháo gà dù có nói các em là có thuốc độc thì nó vẫn ăn vì quá đói”. Vậy là ý nghĩ tiêu cực trôi qua. Nhờ có tiền cầm hai bộ quần áo lành lặn cuối cùng chị em tôi lại cầm cự được ít bữa...

Và một buổi tối bà Nã đem xuống cho chị em tôi một tô cơm trắng. Sáu chị em tôi chia nhau mỗi đứa một ít.... ăn với muối trắng. Bữa cơm ngon và nhiều nước mắt... cám ơn Bà...

Chồng tôi khi về quê cùng Ba anh. Đến khi tôi sanh được một tháng thì anh và Ba anh lên lại... Anh khóc không ngừng vì quá đau khổ . Nhưng cũng không có tiền cho tôi... Anh nói anh về và nhận được hai người học trò học điện tử nhưng chưa lấy được tiền. Vì sốt ruột quá nên anh đòi lên thăm tôi (sau này nghe má anh kể lại khi anh về Ba anh cho gọi vợ cũ anh vào để hàn gắn nhưng anh nhất định không chịu nên gia đình cũng chịu thua. Mẹ anh kể tối t*o thấy nó cứ thở dài, dậy hút thuốc không ngủ, t*o bảo nó: Mày cố dạy học để kiếm tiền lên lo cho mẹ con nó chứ bây giờ mày ra không có tiền cũng không giải quyết được gì. Nó cũng có chị em nó rồi.

Ba chồng tôi cố ý ra với anh để đưa anh về. Có lẽ ông đoán được nếu ông không đi cùng anh sẽ không bao giờ bỏ mẹ con tôi mà về. Anh ra thăm mẹ con tôi 2 ngày rồi về cùng Ba anh .Suốt một đêm tôi và anh không ngủ, nhìn con rồi khóc vì thấy mình quá bất lực...

Anh nói với tôi. Anh về dạy học (anh rất giỏi điện tử) rồi kiếm tiền lên nuôi em và con. Ở đây không làm gì ra tiền mà bây giờ về nhìn em và con thế này anh cũng không đành, thà ở bên nhau rồi có sao cùng nhau chịu đựng.

Nhưng tôi biết Ba anh theo cùng là để kéo anh về ,nếu mình giữ anh lại cũng chẳng được ,rồi mất công Ba anh nổi cơn nóng giận. Sáng hôm sau Ba anh nói “Thôi cháu để cho thằng H nó về làm kiếm tiền lên nuôi con, ở đây không có việc gì làm”.

Tôi nói với ông .
- Cháu biết bác muốn chia rẽ chúng cháu, xa mặt cách lòng. Cháu không đuổi anh ấy và cũng không giữ anh ấy. Còn nếu anh về mà không lên nữa cháu không trách bác và cũng không trách anh ấy. Cháu coi như mình bất hạnh khi không chồng mà có con... Bác và anh cứ yên tâm.

Chồng tôi bịn rịn mãi không thôi, chỉ đến khi Ba anh lớn tiếng là anh ôm tôi và con rồi khóc. Thế rồi chúng tôi chia ly trong nước mắt và uất ức... anh đi... tôi ở ....

Tôi nhớ ngày hôm đó tôi như mất hồn... lòng thầm trách sao anh nỡ để mẹ con tôi trong lúc này có nhẫn tâm lắm không ? Hay anh chỉ nghĩ hy sinh để có ngày đoàn viên... Lòng cứ đau và mâu thuẫn cứ trở đi trở lại trong tôi, lúc oán ghét , lúc bênh vực. Và sau khi con được 1 tháng 10 ngày thì trong tôi đã có một bước ngoặt trong cuộc đời .

Tôi bàn với chị bán miếng đất mà chị em khai hoang trồng bắp cho cô ở gần rẫy. Lâu quá tôi không nhớ rõ số tiền nhưng chia ra hai phần, một phần tôi và hai em cùng con trai sẽ lên Sài Gòn để tìm đường sinh sống, một phần để cho chị và hai em ở lại .

Vì trước đó tôi có gặp lại ông anh bà con là anh Linh Vũ. Mẹ anh cũng ở gần chỗ tôi. Anh gặp tôi và bảo: -Ngày xưa tụi em sống ở Saigon sao bây giờ không về đó buôn bán mà chịu chết ở đây sao ?”.
Tôi nói:
-Nhưng bây giờ chúng em đi lâu rồi , về chỗ đâu mà ở ,nếu anh cho em ở nhờ nhà anh ,thì em sẽ về, anh đồng ý và bảo tôi về đi. (Tôi mãi cám ơn anh chị về việc này).

Thế là chị em tôi chia đôi , chị và hai em Hải và Thuý ở lại. Tôi và hai em Kim Anh, Lan cùng con trai về Sài Gòn. Một cuộc sống mới bắt đầu...

Về Sài Gòn, đến nhà anh, anh cho chị em tôi ở nhờ gian bếp. Tôi đi mua một cái chiếu, hai cái nồi, năm cái chén,1 cái tô ,một cái dĩa mấy đôi đũa ,muỗng và mấy cái ly cùng một cái bếp dầu . Vì ở nhờ nên tôi không dám nấu bếp củi.

Con còn nhỏ ,mới hơn một tháng. Vậy mà cứ 3h sáng tôi cho con bú xong , để con lại cho em ,tôi đi ra ruộng rau muống cũng không xa chỗ ở lắm. Trước đó nhờ người chỉ nên tôi đã thoả thuận với chủ bán cho tôi hết chỗ rau ở ruộng tôi hái đem bán và trả tiền hàng ngày. Vì cũng là chỗ quen biết ngày xưa với Bố Mẹ tôi , nên họ sẵn sàng giúp đỡ. Đến khoảng 5h sáng thì tôi có được một gánh rau gánh về nhà. Cho con bú thêm rồi tôi ra rửa rau cho sạch bèo và chia ra từng bó nhỏ, sau đó gánh ra chợ Hoàng hoa Thám bán.

Ngày nào cũng vậy trước khi đi tôi để lại 1 đồng để em gái mua đường cát trắng về pha nước cơm cho con trai tôi uống,đến khi mẹ về thì con cũng uống hết 1 đồng đường. Con trai ngoan lắm ,rất ít khóc , khi nào khóc là biết tã ướt, vào thay là nín ngay ,thương con chưa khi nào biết miếng sữa bò là gì cả!

Tôi quên chưa kể .Ruộng rau muống là ruộng nước ,ngày nào tôi cũng lội ngang bụng mới cắt đuợc rau , nên mỗi sáng đều ngâm mình dưới nước dù mới sinh con , giờ chân tôi hay bị đau nhức. Sau khi đi bán về , em gái ở nhà nấu cơm. Nó lấy cái ly uống nước nhỏ và đong 3 ly gạo rồi nấu ,và luộc một rổ rau muống to , 3 chị em nhường nhau qua lại vậy mà ngày nào cũng có ít cơm dư, còn rổ rau thì hết.

Ăn cơm xong tôi cho con bú thêm một lần . Rồi vội vàng xách giỏ lên chợ Cầu Muối . Ngày xưa tôi ở Sài Gòn nên tôi không bỡ ngỡ nhiều. Tôi mua khoai lang và khoai mì về , rôi đem luộc và đem ra đầu Nhà Thờ Tân Thành ngay gần nhà để bán .
Ơn Chúa thương, chị em tôi bán rất đắt hàng ,mừng không kể xiết, thế rồi tôi nói với em gái: Hai đứa ở đây bán ,chị về Long Thành đón chị hai và hai đứa kia lên.

Trưa đó tôi bế con về , không quên mua 3 ổ bánh mì không (lúc đó là quý lắm , nhất là nhà đói bền như nhà tôi). Về đến nhà , cửa đóng, nhìn vào khe hở tôi thấy em trai ngồi trên võng, tôi gõ cửa. Em trai trả lời: Vào đi . Tôi cắc cớ gõ nữa em trai nhìn ra khe cửa la ầm lên: Chị D về!

Thấy mấy ổ bánh mì em mừng mắt long lanh. Tôi còn nhớ mãi ánh mắt ấy. Em giơ tay bế cháu và tôi bảo em lấy bánh mì ăn đi. Em cầm ổ bánh bẻ cho tôi một miếng và ăn như chưa bao giờ đuợc ăn. Có lẽ đó là miếng bánh mì ngon nhất đời em. Chị tôi từ phía sau đi vào, tôi nói với chị: Em về SG thấy sống được , ngày mai em đưa chị và các em lên hết. Ánh mắt chị tôi ngời sáng ,nhưng như tin vào sự thật chị tôi hỏi: “Giê-su, t*o tỉnh hay mơ vậy D?”. Tôi nhéo vào tay chị và nói: “Chị tỉnh nè ,em và chị ra đào hết khoai mì mới trồng còn non , ra chợ bán lấy tiền về xe... còn căn nhà ngày xưa đi xin , thì bây giờ cũng bỏ lại”.

Thế rồi trưa hôm sau ,chị em tôi thu dọn mớ đồ đạc ít ỏi ,rồi bồng bế nhau về Sài Gòn.

Về Sài gòn. Tôi bắt đầu sắp xếp lại công việc ,vì chị Hai rất hiền nên tôi để chị ngồi bán ở đầu Nhà Thờ. Hằng ngày tôi đi lấy khoai về cho chị luộc và nấu thêm nồi chè để chị bán. Tôi và Kim Anh thì được người ta chỉ cách nấu cơm rượu (của người Bắc) để bán. Hai chị em đi bộ. Nhà tôi ở gần Bà Quẹo mà tôi đi bộ lên tới chợ Trương Minh Giảng để bán. Tôi có duyên bán hàng ,nên bán mau hết lắm, cứ 5h sáng khi chuông Nhà Thờ đổ là tôi dậy chuẩn bị đi bán... và khoảng 9h tôi bán hết ,rồi đi về nhà đi chợ Cầu Muối mua khoai cho chị bán.

Nói về họ nội .
Gia đình Bố tôi có 4 người con (không kể những người đã mất)
Hai chị gái, và một anh trai, bố tôi là út...
Khi thời thế thay đổi, chị gái Bố tôi ở Vũng Tàu nên đi vượt biên năm 1975 và ở nước Mỹ từ dạo đó. Chúng tôi không bao giờ được biết tin tức của bác. Một hôm anh trai của Bố tôi (xin gọi là M cho dễ nhớ )xuống nói với tôi :Mày cho thằng Hải lên ở với t*o, t*o cho nó đi học. Tôi nghe thế mừng quá vì như vậy em trai sẽ đỡ khổ và còn được đi học nữa. Nhưng tôi không ngờ đó là mưu kế của bác tôi. Sau này tôi mới biết vì bác tôi và bác ở bên Mỹ luôn liên lạc với nhau. Bác M nói với bác bên Mỹ là bác T rằng: Tôi khổ lắm! Phải nuôi hết 6 đứa con của chú Y( là tên bố tôi ). Bác T bên Mỹ tin thật , thế là ở Mỹ cố gắng làm kiếm tiền gởi về để bác M nuôi chị em tôi... Vậy mà chị em tôi không được một cục kẹo của bác. Thật chua xót và đau lòng.

Còn phần em trai tôi ở với bác, bác có cho đi học đâu mà cứ 2h sáng là bắt em tôi ra chợ Bà Chiểu để lấy rau về bán lẻ. Chị em tôi ngu ngơ, cứ ngỡ em ở với bác, bác thương và cho ăn học nên người ,có ai ngờ bác tôi ác quá ,chỉ vì đồng tiền mà bác tôi nỡ đày đoạ em tôi ,một đứa cháu mồ côi mới 13 tuổi phải cực khổ trăm bề , và có một lần (con rể bác kể cho tôi nghe ) em tôi ru cháu ngoại bác mà lỡ ngủ quên, bác lấy dây thắt lưng quật em tôi lột da lưng. Bây giờ có những đêm nằm nhớ lại, tôi nghiến răng căm hận và khóc gần hết đêm vì thương em.

Cứ ngỡ thương em , ai ngờ đẩy em vào bước đường đau thuơng. Lâu lâu mượn được chiếc xe đạp, tôi đạp lên thăm em một chút rồi về. Riêng em khôn lắm, sợ chị buồn nên toàn dấu chuyện. Viết đến đây là nước mắt tôi lại không ngừng rơi. Một hôm lên nhà bác, tình cờ tôi thấy có thùng đồ bên Mỹ gởi về cho bác. Người tôi run lên khi nhìn thấy tên người gởi là bác tôi ở bên Mỹ. Dù không biết đọc tiếng Anh ,nhưng tôi cố gắng nhớ trong đầu cái địa chỉ của bác tôi bên Mỹ và tôi chạy sang nhà người quen gần đó mượn cây viết và ghi lại địa chỉ rồi sang nhà bác âm thầm dò lại xem có đúng không. Ơn Trời ! Không sai một chữ .Thế là tôi về viết một lá thư kể hết sự tình cho bác bên Mỹ nghe... vài tuần sau thì chúng tôi nhận được thư bác. Bác viết: Các con ơi, nhận thư các con bác đọc và đã ngã bệnh, bác không ngờ bác M ác vậy... và bác nói với chúng tôi là cố lo cho em trai ăn học bác sẽ lo , bác kể bác gởi về nhiều lắm cho cậu M , vì nghĩ là nuôi 6 chị em tôi... nhưng có ngờ đâu , chị em tôi đói khát như thế .Nhưng ông trời sao khéo đùa, khi biết tin của bác thì cũng là lúc căn bệnh ung thư trở nặng, và hai tháng sau khi biết tin, bác tôi mất!!!

Một hôm mới sáng sớm ,thấy có người chở em trai về nhà .Em bảo tôi: Chị D ơi, em đi bán rau em mua tờ vé số, em trúng độc đắc cùng mấy người ngoài chợ. Em mua cho bác M nữa mà bây giờ bác lấy của em luôn. Chị lên đòi lại đi, còn người chở em về là người cùng bán tại chợ và cũng trúng giống em, thương em nên sáng sớm kêu em bỏ rau rồi chở em về kêu chị.

Tôi vội vàng lên nhà bác. Sau khi nói rõ lý do bác không chối nhưng bảo: “t*o giữ cho nó khi nào nó cưới vợ t*o lo cho nó”. Dù chúng tôi có nói thế nào bác cũng không đưa. Ở xóm bác người ta xúi chị em tôi ra phường thưa nhưng nghĩ đến bố tôi , tôi không đành lòng làm thế dù rất hận và ghét. Còn tiền thì mãi mãi không bao giờ nhận được. Đến bây giờ sau hơn 40 năm, em tôi vẫn còn nhớ như in dãy số trên tờ vé số đã gieo cho em nỗi vui mừng không sao tả xiết và cũng làm em đau đớn bội phần: 454989.

Sau hôm đó tôi đưa em trai về. Tôi đứng trước cửa nhà bác hứa không bao giờ cho các em bước chân lên nhà bác một lần nào nữa. Có một điều lạ là khi tôi cưới vợ cho em ,thì cũng là ngày bác M chết. Không biết có gì linh ứng không hay vì bác nói sẽ lo cho em tôi khi nó cưới vợ hay có gì huyền bí thì tôi không biết nhưng tôi thấy rất kỳ lạ ?

Thế là 6 chị em tôi lại chung sống với nhau. Về sau chị em tôi đi mướn nhà ở vì ở nhờ nhà Linh cũng hơi lâu.

Ba đứa em tôi thì có em Thuý về Sai Gòn là bị sốt rét cách nhật. Mỗi lần sốt người cứ run cầm cập ,thương em. Ở gần nhà có ông làm y tá cứ đi chích tại nhà, thế là nhờ ông lại khám và cho em uống thuốc , em yếu lắm nên chẳng làm được việc gì. Khi nào không sốt thì em ở nhà trông cháu cho chị đi bán.

Con trai tôi suy dinh dưỡng và bị ghẻ khắp người . Một hôm tôi bôi thuốc ghẻ vào tay, cái bao tay rớt ra, cháu cho tay lên miệng mút. Khi nghe tiếng cháu khóc tôi đang dở tay lột khoai mì nên bảo em gái vào bế cháu. Lúc nó bế ra, tôi xém xỉu... Người con tôi tím đen như người bị chết đuối vớt lên... Tôi khóc ầm ĩ. Hàng xóm chạy qua và bảo tôi đưa đi bệnh viện ngay. Tôi kêu xe chở con lên BV Trưng Vương, họ từ chối và bảo sang Nhi Đồng 1. Vào khoa cấp cứu bác sĩ cũng lắc đầu và cho con tôi nằm ở cái băng ca . Không chữa gì cả ...

Tôi chạy vào phòng cầu cứu “Bác sĩ ơi ,tôi không có chồng, chỉ có mỗi nó. Bác sĩ làm ơn cứu dùm con tôi”. Tôi vừa nói vừa khóc.

Cô bác sĩ nhìn mình một lúc, chắc thấy vẻ lam lũ nên thương tình và bảo bế bé vào. Mừng quá ra bế con vào. Thế là bác sĩ nói cô y tá cởi hết quần áo bé ra, ngâm bé vào cái bồn inox và xả nước vào. Rồi tôi thấy bác sĩ chích mấy mũi thuốc cho bé, sau đó cho bé vào phòng hồi sức và cho vào lồng kiếng. Ngày ấy phương tiện thiếu thốn, không có điện thoại để liên lạc với ai nên hai mẹ con ở viện mà nhà thì không biết tin gì. Vì tiền thì ít nên tôi ngày hai bữa chỉ mua khoai lang ăn. Có hai vợ chồng có đứa con nằm cạnh giường con tôi. Chị để ý thấy tôi toàn ăn khoai nên hỏi: “D ơi sao chị không thấy em ăn cơm?”. Tôi giả bộ: “Dạ có, em đi ăn mà chị không thấy đó”.

Trưa đó anh chị đi ăn cơm và mua về cho tôi một hộp cơm thịt kho ...tôi từ chối mà anh chị không chịu ,Anh chị sợ tôi ngại nên chị nói: Chị ở Cái Bè, ngay cầu Caí Vồn. Chị buôn gạo. Khi nào con hết bịnh ra tới Cái Vồn gọi chị ra đón. t*o với mày làm sui nha.

Rồi con tôi cũng được xuất viện. Mừng không tả xiết, tôi thầm cảm ơn vị bác sĩ có tâm đã hết lòng cứu chữa cho con tôi thoát qua cái chết.

Em trai về. Chị em tôi ban ngày buôn bán, tối tôi cho 3 em đứa đi học bình dân học Vụ ,vì thế dù Bố Mẹ mất sớm, các em không được học cao nhưng không ai mù chữ.

Một buổi tối em trai tôi đi học ,em khôn lắm ,ghé ngang nhà bán bánh đa mè lấy 15-20 cái đến quán lòng bò nhà bà Báu, em ghé vào gởi nhờ bà bán dùm rồi đi học. Có một hôm thấy em mới đi mà chạy về mồ hôi nhễ nhại, tôi hỏi sao không đi học mà về. Em đặt vào tay tôi miếng lá chuối, giở ra tôi thấy mấy miếng lòng bò , em nói thấy bàn đó ăn xong, họ đi mà còn dư lại em cầm về cho chị. Tôi hỏi sao em không ăn mà đi học. Em nói cầm về cho chị ăn cho con chị nó bú. Nước mắt và lòng bò hoà quyện vào nhau. Thương em quá, cái tuổi đang lớn, nhà nghèo thèm đủ thứ vẫn nhịn cho chị ăn. Thế rồi em tôi chạy đi học ,dù từ chỗ bán về gần 2km. Vậy sao tôi không thương em cho được.

Nhà nghèo chỉ lo được cái ăn ,nói đến cái mặc tôi không bao giờ quên. Tôi có một cái quần tây màu nâu ,tôi thì bự con hơn em trai. Em có cô bạn gái. Mỗi lần bạn rủ đi chơi, em về nói là tôi lại lấy cái quần của tôi và khâu lại cái lưng, hai cái ống cho em mặc. Khi em về tôi lại xả lưng và ống ra. Về sau cái đường chỉ tôi khâu ủi cách nào cũng không hết những lỗ kim. Việc đó kéo dài không nhớ bao lâu ...nhưng có lẽ lâu lắm .

Một hôm khi ngồi bán đầu nhà thờ thì tình cờ có anh Toàn bạn chồng tôi ở dưới quê đi bán thuốc Lào ngang qua chỗ tôi bán. Anh hỏi thăm gia đình tôi. Khi về đến kinh B, anh gặp chồng tôi và chỉ chỗ tôi bán.

Một buổi tối, tôi và chị đang nói chuyện. Con trai tôi dựa vào tường chập chững bước đi đầu tiên năm 1982 thì bỗng anh đứng ngay trước cửa. Tôi i bất ngờ quá nên nhìn anh sững sờ. Chị tôi nói: Ơ thằng H. Thế là tôi và anh cùng khóc. Con tôi từ ngày sanh đến lúc biết đi mới gặp lại bố... Đêm đó anh kể cho tôi nghe anh về nhà dạy học. Họ đóng trước một nửa tiền học. Anh đưa cho mẹ anh giữ chờ khi dạy xong lấy tiếp sẽ đi lên với mẹ con tôi nhưng không ngờ mẹ anh xài hết. Lần tới anh đem vào nhà bác Nhâm gởi và khi biết tin tôi ở Sài Gòn anh lấy số tiền đó lên với tôi luôn.

Bác trai tôi ở Bình Thuận lên và nói chị em tôi về Bình Thuận ở. Khi đó Ngoại tôi già lắm rồi và ở cùng cậu mợ tôi cũng nhờ bác tôi đưa về. Vậy là chị tôi, Thuý và Hải theo bác về, còn tôi và hai em gái ở lại. Em trai tôi ra đó đi làm cùng bác vì bác làm xây dựng nên em tôi về sau cũng biết xây nhà. Chị gái tôi thì tráng bánh cuốn và ra chợ bán, còn em gái tôi cũng theo người ta đi làm lúa.

Một thời gian sau em trai lên ở cùng tôi và em quen một người con gái trong xóm mà bây giờ cũng là vợ em
Vì còn bà ngoại và bác tôi cũng muốn làm đám cưới cho em ở dưới quê,nên tôi cũng bằng lòng. Về sau hai em gái tôi cũng cứ lên xuống giữa Saigon và Bình Thuận.

Chồng tôi lên Sài Gòn chưa có việc làm, còn tôi có thai bé thứ hai. Hằng ngày tôi vẫn đi bán cơm rượu. Ngày tôi chuyển dạ 9.9.1983 cũng là ngày đầu tiên anh có việc làm sửa chữa điện tử ở Huỳnh thúc Kháng .

Nhớ những ngày đầu tiên anh đi làm anh chỉ có một bộ quần áo. Sáng đi làm tối về giặt rồi ủi cho khô mai mặc tiếp. Ngày nào cũng vậy.
Một thời gian sau tôi kiếm được chút vốn ra chợ điện tử Huỳnh Thúc Kháng. Chồng sửa máy, vợ bán đồ điện tử. Cuộc sống bắt đầu lìa xa cái đói.

Năm 1989 tôi có thai bé thứ 3 thì lại có thêm một biến cố. Khi tôi sanh bé có chị Linh ở gần nhà , chị sang thăm và nói với tôi: “Em sanh nằm cử tiền để không em đưa cho chị, chị kiếm cơm còn em cũng có cháo”. Nghe chị nói tôi thấy cũng có lý nên đưa cho chị mượn, đã thế tôi còn gọi điện thoại cho em gái lấy chồng gần đó nói với nó có tiền đem xuống cho chị ấy để chị ấy trả cho ít tiền lời mà sinh sống. Em tôi nói với mẹ chồng nó. Bà đem tiền xuống quy ra vàng là 3 cây gởi cho chị Linh. Sau vài tháng chị Linh bỏ trốn. Tôi mất hết còn phải đền cho bà 3 cây do gia đình bà nói tại tôi nên bà mới biết chị ấy để gởi. Vì nghĩ đến em gái làm dâu nhà họ nên tôi bán căn nhà được 3cây 2, trả nợ 3 cây còn 2 chỉ, đi mướn nhà ở.

Nhà tôi hoạ thì nhiều nhưng vận may cũng có. Một lần con gái tôi khi đó học lớp 8. Tối đó con tôi xin, mẹ cho con 10 đồng con đi hội chợ. Tôi hỏi con đi với ai, nó nói con đi với mấy đứa trong xóm. Vé vào cửa 4 ngàn, tôi cho cháu 10 ngàn. Một hôm tôi đi làm, em gái tôi gọi điện báo tin con tôi trúng đặc biệt được một cái xe Angel. Tôi không tin và hỏi ai nói , nó nói họ gọi điện thoại về nhà anh Tiến, thằng Nam nghe. Tôi biết Nam bị nặng tai nên bán tín bán nghi nhưng cũng xin phép về.

Về đến nhà thấy em gái em trai đầy đủ. Họ hẹn 15h lên mà vì nôn quá nên chị em tôi lên sớm. Đến cổng, bảo vệ hỏi đi đâu, tôi nói nghe trên này báo con tôi trúng cái xe ko biết có đúng ko, ông hỏi tên gì và kiểm tra vào máy, ông xác nhận là đúng. Niềm vui vỡ oà chị em nhìn nhau sung sướng. Năm đó cái xe trị giá 3 cây vàng. Về nhà tôi còn nhớ mãi đêm đêm tôi nằm cạnh cái xe sờ vào nó mà như người mơ ngủ, vì đang đi xe đạp mà nay có một cái xe mà còn xe đẹp nữa hạnh phúc biết chừng nào. Nhờ cái xe đó mà khi tôi mua nhà tôi bán nó mới đủ tiền mua nhà.

Rồi cách đây khoảng 2 năm con gái út tôi đi ăn KFC và cũng trúng được 1 cây vàng. Các em tôi nhờ ơn Chúa và Bố Mẹ phù hộ ,hiện giờ ở hết Sài Gòn. Chị em vẫn ở gần nhau. Người nào cũng có nhà tuy không lớn lắm nhưng đối với chị em mình thì cả là một sự cố gắng không ngừng. Mình cũng cảm thấy rất vui khi có rể hiền, dâu ngoan. Quả là ông trời đã bù đắp cho chị em mình sau chuỗi ngày đau khổ cùng cực.

Mình chia sẻ câu chuyện đời của chị em mình để nếu có ai đang buồn khổ, tuyệt vọng thì hãy cố lên nhé!
Bây giờ tôi hay nói với các con cùng các cháu: “Nhà mình không đói thì không ai đói, nhà mình không ế thì không ai ế”. Chị em mình cho đến giờ vẫn thương nhau như thủa nào. Có chuyện gì chị em cũng cùng nhau sát cánh.

Xin cám ơn tất cả mọi người đã đọc được câu chuyện này. Xin kính chúc mọi người sức khoẻ, bình an và hạnh phúc.
Dung Đoàn
26/3/2021

Thanked by 2 Members:

#191 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 29/04/2021 - 23:05

NHỮNG TRANG TRỐNG

Nhật ký của tôi bỏ trống ba ngày: 28, 29 và 30 tháng Tư năm 1975.

Sáu giờ chiều ngày 28-4 nhóm tác chiến của chúng tôi tách ra khỏi các đơn vị khác, áp sát quốc lộ 4 rồi thay trang phục của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và bỏ khăn bịt mặt. Tôi nhét khẩu K63 vào ba lô của mình, để vào trong một chiếc ba lô khác của quân đội Sài Gòn, cầm thêm một khẩu AR15. Chúng tôi lao thật nhanh lên quốc lộ 4 rồi từ từ đi về phía Sài Gòn. Tôi ngạc nhiên về bề rộng của quốc lộ 4. Khi nhìn thấy những tòa nhà cao tầng ở phía Sài Gòn, tôi nghĩ "mình đang đánh lại một nền văn minh cao hơn".

Thật sự thì mấy ngày trước đó tôi không hề nghĩ ngợi hay dự kiến điều gì. Với tôi, mọi suy nghĩ hay dự kiến lúc đó đều không thực tế. Ra trận thì sống chết hoàn toàn chỉ là may rủi. Tôi sống theo kiểu trai thời loạn, đến đâu hay đến đó thôi. Nhưng khi đi ngang xa cảng Phú Lâm, nhìn nhà cửa và nghe những người dân hai bên đường nói chuyện thì tôi bắt đầu suy nghĩ. Thái độ và giọng nói của họ nghe thật hiền lành thân thương. Họ đang vô cùng sợ hãi. Tôi nhớ đến những người miền Bắc XHCN, tính cách và lối sống của họ ở những nơi mà tôi đã sống qua 18 năm. Tôi nghĩ "mình đang là kẻ cõng rắn cắn gà nhà".

Đêm hôm đó chúng tôi ngủ nhờ trong một nhà dân bên đường Kinh Dương Vương.

Sáng 29-4 tôi tách khỏi nhóm tác chiến, đi lang thang trên những con đường ở quận 6. Buổi trưa tôi ngồi nhậu với một nhóm tàn quân, im lặng nghe họ giãi bày tâm sự. Càng nghe những người dân và những người lính Việt Nam Cộng Hòa nói chuyện với nhau tôi càng buồn, càng cay đắng. Tôi hôm đó tôi ngồi ngủ dựa lưng vào vách tường một căn nhà gần bùng binh Phú Lâm vì nghĩ rằng mình không có tư cách gì để bước vào xin ngủ nhờ ở bất cứ một gia đình nào.

Sáng hôm sau (30-4) tôi đi theo đường Hồng Bàng, ngang qua trường Đại học Y khoa, tiến về phía trung tâm Sài Gòn. Mọi con đường đều vắng người. Khi tôi đến ngã ba Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) và Lý Thái Tổ thì bỗng nhiên có những tiếng hô lớn "đầu hàng rồi, đầu hàng rồi…" và người dân bắt đầu đổ ra đường, nhảy nhót như điên, la hét vang trời. Tôi lách qua họ tiếp tục đi về phía trung tâm. Có người chồm tới áp sát mặt vào mặt tôi la lên: "Ném súng và thay đồ rồi trốn ngay đi!". Tôi mặc kệ họ, cứ lặng lẽ đi tiếp. Đến đường Lê Văn Duyệt, rẽ qua Hồng Thập Tự thì bên này đường Lê Văn Duyệt dân chúng đông nghẹt, còn bên kia (khu vực t*o Đàn và dinh Độc Lập) vẫn chưa có ai dám bén mảng vào.

Tôi vứt khẩu AR 15, tháo ba lô trên vai xuống, mở sẵn nắp rồi xách bằng tay trái để nếu cần thì rút khẩu K63 ra cho nhanh rồi bắt đầu đi trên con đường Hồng Thập Tự vắng ngắt không một bóng người.

Tôi đi lặng lẽ trong nỗi cay đắng càng lúc càng dâng trào. Khi đến trước cửa Bộ Tài Chánh, nhìn qua bên kia đường thấy hàng rào bằng gang đúc của dinh Độc Lập thì hình ảnh của thời thơ ấu của tôi hiện lên ngay trước mắt. Hồi đó mẹ tôi đã từng dẫn tôi đến đây. Lúc đó mẹ tôi và tôi ăn mặc lịch sự, sang trọng. Những người đi bộ xung quanh đây cũng đều ăn mặc lịch sự, sang trọng. Tại sao số phận lại bắt buộc tôi sau hai mười năm ra đi rồi trở về nơi đây với vũ khí trong tay, đi trên con đường vắng ngắt, giữa tiếng súng nổ vang trời?

Trong đời tôi không có ngày nào buồn bằng ngày hôm ấy: ngày 30 tháng Tư năm 1975. Không một người nào chứng kiến cảnh trạng bên hông dinh Độc Lập giống như tôi nhìn thấy trong ngày hôm ấy. Và vào thời điểm đó, tôi dám chắc rằng, cả dân tộc này, có người vui mừng có người sợ hãi, chứ không có một người nào cảm thấy cay đắng như tôi.

Thôi. Nghĩ về ngày 30-4 một lần này nữa thôi. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua rồi.
Công Dũng Trương
29/4/2021

Thanked by 2 Members:

#192 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 30/04/2021 - 19:45

SAIGON
NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975

Một buổi trưa hè ngày này cách đây 46 năm về trước, lúc bấy giờ trời nắng nóng vô cùng, những tia nắng chói chan như thiêu đốt, bầu trời nóng hầm hập... bỗng từ phía xa có tiếng súng nổ chát chúa, âm thanh ồn ào và hỗn loạn càng lúc càng đến gần hơn.

Tôi đang đứng ngoài đường ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì hàng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi hôi của ở khắp khu kho bãi bên Quận Tư. Đang đứng xớ rớ gặp tay nhóc hàng xóm tới xốc tôi theo , hai thằng cuốc bộ tới đường Trình Minh Thế (bây giờ là đường Nguyễn tất thành Q 4) nghe thiên hạ nhốn nháo rần rần kéo nhau săn lùng kho bãi, tôi cũng hăng hái theo sau mặc dầu có những cảnh báo từ người nhà rất là nguy hiểm .

Lúc bấy giờ trên đường phố Saigon một cảnh tượng hãi hùng, hàng loạt quân trang quân dụng của chế độ VNCH vứt bỏ khắp mọi nơi, mấy chiếc điện đài, tài liệu sách báo vứt bên ngoài mấy bô rác... Tiếng còi hú lên liên tục, có cả xe jeep chạy nghênh ngang ngoài đường phố , mấy tay choai choai tóc dài tới vai tay cầm súng M16 kẹp băng đỏ tự xưng là đoàn giải phóng quân, trên tay chỉa thẳng vào đoàn người đang khuân hàng chiến lợi phẩm. Có vài tay quá khích không chịu bị cướp hàng lại thế là một loạt tiếng súng nổ chát chúa bắn thẳng lên trời cảnh cáo bọn hôi của tiếp đến là cảnh tháo chạy tán loạn, một vài người bị trúng đạn không biết từ đâu ngã lăn ra giữa đường cái, máu chảy lênh láng nhưng không một ai dám đến cứu, tình hình vô cùng hỗn loạn...

Tôi bị đoàn người kéo nhau ra tới cuối đường Bến Vân Đồn, nơi đây tập trung hầu hết các cơ sở làm việc của người Hoa Kỳ đã đóng cửa , đoàn người này tìm cách đập phá nát các cánh cửa mở toang các nhà kho nhưng hầu như họ đã cho di tản tài sản từ trước. Những gì còn lại là mấy đồ khó đem đi như tủ lạnh, bàn ghế sofa, các loại máy móc cồng kềnh khó di chuyể , có cả điện thoại, cần câu cá, đồ bơi lặn... mọi người vơ hết cho vào bao xong kéo tới ngã ba gần cầu Quay( cầu Khánh hội bây giờ) tôi theo họ chạy ra tới gần cảng Saigon .

Tại đây khung cảnh càng hỗn loạn hơn, hàng ngàn người dẫm đạp nhau giành chỗ bước xuống mấy chiếc tàu lớn đang há mồm chờ sẵn. Tôi bị đoàn người kéo sát xuống mép tàu bỗng có cánh tay rắn chắc nắm lấy tay tôi kéo lên giữa rừng người nhếch nhác đó là ba tôi khi nghe tin tôi chạy theo đoàn người đi hôi của mấy kho bãi đã chạy ra kịp thời kéo tôi lên bờ , mồ hôi mồ kê nhễ nhãi thấm ướt cả áo trong .Lúc bấy giờ tôi mới hoàn hồn ngồi thu lu ngoài cầu cảng . Đến bây giờ cả nhà tôi đều rất tiếc phải chi tôi theo đoàn người ra đi chắc giờ này đã là Việt kiều yêu nước!

Sau khi về nhà tôi lại lén ba tôi chạy theo đám bạn hàng xóm ra kho hãng phân Bến Vân đồn khiên vác gạo, có vài tay thanh niên vào trong kho vác gạo ra kêu tôi canh chừng rồi đem ra chia. Trong kho gạo tôi nghe tiếng kêu la chí choé, tiếng gọi nhau i ới, bỗng có tiếng đỗ ầm xuống... theo lời kể thì kho gạo người ta xếp ngay ngắn mấy tay hôi của nhào vô vác búa xua không theo trật tự nên mấy bao gạo phía trên bị rỗng chân phía dưới kéo theo nhau rớt xuống ầm ầm chôn theo mấy tay thanh niên .Nghe tiếng kêu cứu nhưng không ai để tâm đến vì lúc ấy quá hỗn loạn mạnh người nào người nấy tranh thủ vác gạo ra khỏi kho, đã có tiếng khóc cho người xấu số vì sự việc này...

Lúc đó ngoài đường phố đã xuất hiện mấy tay giải phóng quân thứ thiệt đầu đội nón cối tay cầm súng AK có đeo băng đỏ trên tay, có nghe ai đó nói là lực lượng vũ trang của Uỷ ban quân quản giải phóng vào để tiếp quản và lập lại trật tự tại Saigon . Trông họ tuỳ tụy ốm o gầy còm, ánh mắt thăm dò, có lẽ ở ngoài Bắc họ chưa bao giờ thấy cảnh nhà lầu xe hơi , đường phố Saigon quá đẹp, hàng cây xanh thấp thoáng bên đường. Một vài anh giải phóng quân há hốc mồm khi thấy chiếc máy hát AKAI vứt ra ngoài đường, có lẽ của gia đình khá giả nào đó trong lúc hỗn loạn đã vứt đại ra ngoài phố... Sau này họ càng chứng kiến biết bao nhiêu thứ mà có trong mơ họ cũng chưa bao giờ nghĩ tới. Nhà cửa, xe cộ, máy móc, đường phố... quá đẹp , quá tuyệt vời, quá cách xa nơi mà họ sinh ra, họ không nghĩ rằng họ đã giải phóng cái gì, và chính ai đã giải phóng ai?

Ba tôi nắm tay má tôi nước mắt lưng tròng, ông nói trong nghẹn ngào “thế là hết rồi bà ơi!“ số tiền mới vừa bán đất bỏ vào Ngân hàng Saigon thương tín đã mất sạch, không biết những ngày tới sẽ ra sao. Trước mắt mọi người nhà nào cũng có vài bao gạo dự trữ, phải nói đó là gạo Thái lan hạt dài nấu rất ngon cơm dẻo, thơm, ngọt... nhưng sau những tháng ngày đó là kinh khủng đối với dân Saigon .

Họ tìm cách vượt biên vì nghèo đói hay vì tự do? .trước mắt là cái đói sau biến cố ngày 30 tháng 4, họ phải ăn độn bo bo (thứ ngũ cốc dành cho gia súc), mì sợi, khoai lang... điều mà người dân Saigon chưa bao giờ nghĩ tới, với vựa lúa gạo miền nam thì làm gì thiếu đói nhưng sự thật là sự thật. Hàng đoàn người lại lần lượt kéo nhau đi vượt biên bất chấp nguy hiểm đang rình rập ngoài biển khơi, họ vứt bỏ tất cả tài sản, nhà cửa, đất đai... với mong muốn cập được bến bờ tự do...

Một người đàn ông lớn tuổi đứng rất lâu trên đường phố Saigon , nước mắt ngấn lệ , ông nhìn ra khoảng trời xa xa , ngậm ngùi trong nuối tiếc “thế là hết, Saigon ơi tôi đã mất từ nay trong cuộc đời!“

Dinh van Sơn

----------------------






Cô Nhíp đánh Mỹ

Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Cao Thị Nhíp, nữ chiến sĩ cách mạng đã dẫn đường cho xe tăng của c.... s.. Bắc Việt từ Củ Chi vào chiếm phi trường Tân Sơn Nhứt.

Năm 1976, phim “Cô Nhíp”, một cuốn phim về đề tài cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 được chiếu trên truyền hình cả nước. Nhân vật cô Nhíp trong phim do chính con người thật của nữ chiến sĩ cách mạng Cao Thị Nhíp đóng vai chính.

Năm 1983, nữ chiến sĩ cách mạng Cao Thị Nhíp đã sang Mỹ định cư tại thành phố Garden Grove, tiểu bang California, thay tên đổi họ và trở thành công dân Hoa Kỳ.

Tại sao cô Nhíp không ở lại Việt Nam để tận hưởng thành quả to lớn của cách mạng do cô góp phần mang lại mà sang Mỹ định cư? Phải chăng cô Nhíp muốn theo đuổi đánh Mỹ đến cả đời?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#193 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 30/04/2021 - 22:28

KÝ ỨC VỤN 30 THÁNG TƯ !

Thấm thoát đã hơn 40 năm kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975. Ngày ấy tôi mới 17 tuổi, tuổi đầy ước mơ và hoài bão, nhưng cũng ngổn ngang những mối lo âu. Ước mơ được vào đại học hoặc đi du học và lo biết đâu mình sẽ bị động viên vào quân đội như bố tôi. Chắc chắn ông không muốn tôi theo binh nghiệp như ông.

Vào những ngày giữa Tháng Ba, những tin không hay từ chiến trường đã dồn dập xuất hiện trên báo chí, đài truyền hình, và đài phát thanh. Buôn Mê Thuột mất, rồi đến Huế, Ðà Nẵng cũng mất, sau đó Qui Nhơn, Tuy Hòa.

Mẹ tôi đã thoát khỏi Tuy Hòa về Sài Gòn trên một chuyến bay dân sự trước khi thành phố này thất thủ. Bố tôi vẫn còn kẹt lại cho đến cuối Tháng Ba mới có mặt ở Sài Gòn. Khi Tuy Hòa mất, ông đã phải di tản bằng đường bộ vào Nha Trang, nhưng lúc đó Nha Trang đã rơi vào tay đối phương. Nhờ người quen giúp, ông lên được chiếc ghe liều lĩnh ra khơi không biết đi về đâu, nhưng may mắn nhóm người trên chiếc ghe đã được chiến hạm Mỹ vớt đưa về Phú Quốc rồi từ đó ông về Sài Gòn.

Sang đầu Tháng Tư, các tỉnh chung quanh Sài Gòn dần dần cũng mất, Dinh Ðộc Lập bị ném bom bởi một trung úy phi công nằm vùng. Tôi và chúng bạn vẫn đi học bình thường nhưng ai nấy đều lo lắng về số phận chính mình vì linh cảm rằng ngày mất Sài Gòn không xa.

Những ngã Sáu, ngã Bảy dựng đầy những kios tuyển quân với số tiền thưởng đầu quân hậu hĩnh. Rõ ràng tình hình chiến sự ngày càng căng thẳng, người ta rất đang cần lính. Một người bạn trong lớp tôi đã đầu quân. Lớp làm bữa tiệc nhỏ tiễn bạn mình mà cứ giống như tiễn Kinh Kha qua Dịch Thủy. Tiễn “anh” đi, chưa bao giờ buồn thế… (1)

Gia đình tôi đang phân vân việc đi hay ở lại. Bố mẹ tôi đều là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954. Mẹ tôi khăng khăng nhất định rời Việt Nam bằng mọi cách. Bà có lẽ đã chứng kiến cảnh ông ngoại tôi bị đấu tố và hành hạ đến khi đưa về nhà thì chết nên rất sợ c.... s... Bác Cả, chị lớn nhất góa chồng và hơn mẹ tôi gần 20 tuổi, đã dắt con trai duy nhất của mình và đưa cả đàn em hơn chục người với gia đình con cái họ chạy khỏi quê Phủ Lý, Hà Nam để xuống chiếc tàu há mồm di cư vào Sài Gòn.

Bố tôi cũng một lần di cư cùng với ông bà nội tôi và các em từ Phúc Yên ra Gia Lâm, Hà Nội để vào Nam. Nhưng bây giờ ông bà nội tôi đã già, bố tôi không nỡ bỏ đi, hơn nữa ông còn khoác áo lính, không muốn mang tiếng đào ngũ. Tâm niệm “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm” của người lính đã làm ông băn khoăn.

Giữa Tháng Tư tình hình trở nên nguy kịch. Ngày 21 Tháng Tư, Tổng Thống Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương chấp chánh. Chính quyền Sài Gòn đã có dấu hiệu suy sụp.

Bố tôi điện thoại cho cô Út tôi đang ở Mỹ tìm cách lo giấy tờ cho gia đình để di tản. Cả nhà hy vọng chồng cô là luật sư Mỹ có thể lo liệu giấy tờ được, nhưng tất cả cần thời gian.

Ngày 28 Tháng Tư, Cụ Trần Văn Hương từ nhiệm giao quyền lại cho ông Dương Văn Minh. Ngày 29 Tháng Tư, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, vòng vây Sài Gòn đang khép chặt, trường ốc đóng cửa, mà có đi học cũng chẳng thể học. Phương án cuối cùng là chạy vào tòa Ðại Sứ Mỹ.

Em chồng của dì tôi là nhân viên tòa Ðại Sứ Mỹ. Gia đình cô ấy thuộc diện được bốc đi. Thế là những người thân khác có thể hy vọng đi theo với sự giúp đỡ của cô.

Qua đám người đông nghịt, tôi được đẩy vào cổng sau tòa đại sứ trên đường Phan Ðình Phùng. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 29 Tháng Tư. Hành trang chỉ là chiếc valise nhỏ Samsonite màu xanh lá cây mà tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Trong túi giấu hai lạng vàng làm vật tùy thân. Vào đến sân sau tòa đại sứ tôi đã thấy một hàng người san sát nối đuôi nhau uốn lượn như rắn bò vào ra một hai căn nhà nhỏ rồi quanh co bên hồ bơi để đến gần nơi trực thăng đáp xuống.

Tôi gặp lại gia đình bác Cả, dì Út tôi, mẹ tôi, và sau đó là cô kế út của tôi. Bố tôi không vào. Mọi người lo lắng, ai cũng từng di cư, ai cũng từng nếm mùi c.... s.., ai cũng mong đến phiên mình được bước lên trực thăng càng sớm càng tốt.

Mẹ tôi nhất quyết ra đi dù không có bố tôi và giận tôi vì tôi có vẻ thờ ơ với mọi việc có lẽ vì tôi chưa nếm mùi c.... s.. mà mãi sau tôi tôi mới hiểu thêm “chuyên chính vô sản” là gì. Tôi vẫn chậm chạp tiến lên trong khi mọi người cố đi nhanh. Tôi và người anh họ tên C, con trai duy nhất của bác Cả tôi dắt theo từ Bắc vào Nam, đã từ từ tách xa những người thân phía trước. Hết đứng rồi lại ngồi nghỉ, mệt mỏi, không ăn trưa, không ăn chiều, chỉ uống nước và chờ đợi. Trời đã tắt lịm, đèn trong sân sau đã thắp sáng. Ðoàn người vẫn đi quanh bờ hồ, đường rất ngắn mà xem chừng thật xa, cả tiếng đồng hồ mới có một chiếc trực thăng đáp xuống và bay lên.

Gần 10 giờ tối, nhóm người thân đi trước đã được bốc đi. Trong đó có mẹ tôi, cô tôi, bác Cả tôi và người con dâu với hai đứa cháu nội, một đứa mới sinh và một lẫng cẫng biết đi, và gia đình dì tôi gồm 7 người với cậu em họ bị polio liệt hai chân phải cõng.

Ðến nửa đêm trực thăng không đáp xuống sân sau nữa. Chúng tôi được đưa vào bên trong tòa đại sứ để lên sân thượng nơi cuối cùng mà trực thăng có thể đáp xuống, hàng người vẫn nối dài đi qua từng bậc cầu thang của 6 tầng lầu, rất chậm và rất chậm. Qua từng tầng lầu, tôi lén nhìn vào khung cửa kính nhỏ thấy nhân viên Mỹ đang hủy giấy tờ và thấy một người cao ốm đi đi lại lại trong phòng mà tôi đoán đó là ông Ðại Sứ Martin vì tôi đã thấy đâu đó trên TV hay báo chí.

Cuối cùng tôi và người anh họ cũng lên đến tầng cuối. Lúc đó khoảng 2 giờ khuya. Trước mặt tôi là cầu thang chót dẫn lên sân thượng. Chỉ mươi bước nữa thôi tôi sẽ xa Sài Gòn để sống một nơi xa lạ, xa người thân, xa bạn bè. Trong lúc suy nghĩ vu vơ thì một người lính Mỹ bắt đầu đếm chúng tôi, họ cho mười người bước sang bên kia chân cầu thang. Tôi là người thứ mười một và kế tiếp là anh họ tôi. Tôi hiểu rằng nhóm bên kia sẽ được lên sân thượng trước, tôi liều nói dối họ bằng tiếng Anh bập bẹ của mình “our relatives are on other side, please let us join them.” Thế là họ cho chúng tôi qua cùng dăm ba người khác.

Ðộ hơn ba giờ sáng họ bắt đầu lại đếm người và cho lên sân thượng. Nhưng khốn thay, họ cho mười người bên nhóm này rồi mười người bên nhóm kia lên sân thượng. Tôi và anh tôi bị chặn lại và tất cả lại chờ đợi. Ðến bốn giờ sáng vẫn không thấy nhúc nhích, nỗi lo lắng và mệt mỏi mỗi lúc mỗi tăng, suốt đêm không ai ngủ, chỉ chờ đợi và chờ đợi. Thế rồi những người lính Mỹ ra dấu và nói với chúng tôi trực thăng bây giờ đáp ở dưới sân và yêu cầu chúng tôi đi xuống. Có lẽ mọi người khác cũng như tôi cảm thấy một điều gì bất thường nhưng không thể cưỡng lại yêu cầu của họ.

Tất cả lục đục đi xuống. Vừa ra khỏi tòa nhà, tôi ngoái đầu nhìn lại thấy độ hai chục lính Mỹ đang chĩa súng về phía đám đông. Khi người Việt cuối cùng vừa ra khỏi tòa nhà thì những người lính Mỹ rút dần vào trong theo hình chữ V và cánh cửa sắt hạ xuống. Tôi biết thế là hết và chợt cảm thấy mắt mũi cay xè. Họ đã tung hơi cay và lựu đạn khói để giải tán đám đông. Mọi người chạy dạt khỏi tấm cửa sắt. Tôi vừa chạy vừa bịt mũi miệng để tránh hít hơi cay. Chỉ mươi phút sau khói và hơi cay cũng tan biến đi.

Cuối Tháng Tư, mới năm giờ, trời le lói sáng, ánh đèn điện vẫn chưa tắt. Trên mặt đất và hồ bơi ngổn ngang giấy rác. Cổng đã bị phá, người bên ngoài ùa vào để hôi của, lấy tất cả những gì mà họ có thể lấy, tủ lạnh, TV, nồi niêu xoong chảo, v.v… Bất chợt tôi thấy một người Mỹ chạy vội vã, tay cầm điện thoại vô tuyến cố gắng liên lạc với bên trong tòa đại sứ. Lẽo đẽo theo ông ta là một phụ nữ người Việt, có lẽ là vợ hay bạn gái. Ông ta cũng bị bỏ rơi như tôi. Ông ta thỉnh thoảng quay lại lớn tiếng với người phụ nữ dường như trách móc vì bà mà ông bị bỏ lại. Tôi cũng không hơn gì, anh họ tôi khóc và trách vì tôi mà anh ấy lạc mẹ và vợ con. Tôi chẳng có gì để phân trần với anh ấy. Thôi thì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, tất cả tại tôi mọi đàng” (2) và tôi lẳng lặng ra cổng sau nơi tôi đã chen vào sáng hôm qua để về nhà.

Trời sáng hơn dẫu chưa 6 giờ, đường sá vắng tanh và yên lặng một cách kỳ lạ, giống như một thành phố bỏ hoang. Tôi đi vội vã trên con đường Phan Ðình Phùng quen thuộc mà tôi vẫn đạp xe đến Hội Việt Mỹ học Anh văn hàng tuần. Tôi chỉ muốn về nhà thật chóng, thỉnh thoảng bắt gặp một vài người đạp xích lô hỏi tôi muốn đi không, nhưng tôi từ chối khéo rằng tôi sắp đến nhà vì tôi không chắc họ thật lòng đưa mình về nhà hay đi đâu và rất có thể bị cướp. Tôi đang lo đến sự an nguy của ông bà nội và bố tôi. Trong đầu tôi hiện lên lời ông nội tôi nhắn nhủ “ông bà đã già, chỉ cần cho cháu đi thoát được, nếu ‘họ’ vào thì ông bà quyết không để cho ‘họ’ làm nhục ông bà.”

Tôi hiểu ông nói gì. Trong tủ thuốc có sẵn hàng chục viên thuốc ngủ và sẽ được dùng khi cần. Ông tôi, từ một thầy giáo tiểu học thời Pháp thuộc đã đến với Việt Minh qua phong trào “Truyền bá chữ quốc ngữ” do cụ Nguyễn Văn Tố khởi xướng. Nhưng ông tôi cũng sớm rời bỏ kháng chiến để dinh tê (re-entré) về vùng của Pháp. Cụ đã nhận thấy cái ác, cực ác của chủ nghĩa c.... s.., sẵn sàng thanh toán, thủ tiêu bất cứ ai khác chính kiến (3). Họ có thể trả thù, đấu tố, trừng phạt những người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến như ông nội tôi. Không ai biết được những gì sẽ xảy ra (4).

Ði ngang chợ Vườn Chuối, rồi chợ Bàn Cờ. Hàng quán thưa thớt lạ lùng mà lẽ ra giờ này phải đông đúc tấp nập. Thoáng trong đầu tôi một sự tưởng tượng ghê sợ: mình sẽ là đứa trẻ mồ côi khi về nhà không còn thấy ai sống. Tôi cố gắng đi càng nhanh càng tốt, dù rất mệt hầu như không còn sức. Ðến nhà, nhìn vào không thấy đèn sáng, tôi gõ mạnh liên tục vào tấm cửa kéo rồi nghe tiếng chân bước ra hỏi “ai đấy.” Nỗi lo sợ tan biến đi, tôi vội nói rõ to “cháu đây bà ơi.” Bà tôi vội mở cửa và nói vọng vào trong nhà “cháu nó về, ông à.” Cả nhà vội ra cửa nhìn tôi ngạc nhiên.

Câu nói đầu tiên của tôi là “cháu cần đi ngủ.” Thức trắng cả đêm và không có gì trong bụng suốt ngày hôm qua. Tôi rất mệt và cần ngủ.

Nhưng tôi không ngủ được nhiều. Ðầu óc vẫn bàng hoàng. Lúc tôi thức dậy bà đã nấu cho tôi tô cháo đậu xanh như mỗi lần tôi ốm. Vừa ăn tôi kể lại những gì xảy ra trong đêm qua. Không ai nói gì, một yên lặng bi thương.

Chiếc radio vẫn để mở liên lục để theo dõi tin tức. Rồi tin đúng trưa hôm đó là lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Cuộc chiến Nam Bắc đã chính thức chấm dứt. “Hòa bình” đã đến. Quá trưa tôi đạp xe đến nhà cô P, em kế bố tôi, ở gần cổng xe lửa số 6 đường Trương Minh Giảng mới hay cả nhà đi hết với người em chồng mà sau này mới biết họ đi từ cơ quan DAO (Defense Attaché Office). Và tôi cũng ghé đến gia đình bác T, một người chị khác của mẹ tôi, ở ngã ba Ông Tạ. Cả nhà cũng đi hết. Họ đã xuống Vũng Tàu từ vài ngày trước. Tôi lủi thủi đạp xe về, lòng dạ trống trải kỳ lạ.

Tôi trở lại trường tiếp tục học. Vài thầy cô và bạn bè vắng mặt, trong đó có người bạn gần nhà mà tôi đã đến giã từ trước khi vào tòa đại sứ, nhưng bây giờ chính anh là người đi thoát còn tôi thì kẹt lại. (Sau này tôi biết anh đã cố gắng giúp mẹ tôi tìm tôi bên đảo Guam mà không được. Tôi vẫn tri ân điều đó.)

Mươi ngày sau bố tôi được gọi lên trình diện với chính quyền mới. Ban đầu được sáng đi học “cải tạo,” chiều về. Rồi sau đó được lệnh mang theo lương thực đủ cho bốn năm ngày vì học lâu hơn. Ai cũng ngỡ chỉ một tuần thì “học” xong. Nhưng không, ngày về không có. Ðó là bài học đầu tiên cho tôi và người dân miền Nam về sự dối trá của chính quyền mới. Và rồi đây chính tôi sẽ phải biết nói dối, phải biết cảm ơn Bác và Ðảng đã giải phóng tôi. Tôi sẽ không còn là tôi nữa. Bằng không, tôi sẽ không tồn tại. Làm sao có thể suy tư là tồn tại theo kiểu của René Descartes, “Je pense, donc je suis”?

Mấy ngày sau sinh hoạt hàng ngày có vẻ bình thường lại, chính quyền mới tổ chức ăn mừng chiến thắng. Học sinh, sinh viên được quy tụ lại mít tinh mừng chiến thắng, mừng lễ Lao Ðộng, mừng sinh nhật “bác Hồ.”

Trong lúc đó người đưa thư quen thuộc đến giao gia đình tôi bức điện tín từ Mỹ. Tin ngắn gọn yêu cầu tòa đại sứ cho gia đình tôi vào. Nhưng tất cả đã muộn. Không còn tòa đại sứ Mỹ nữa.

Rồi ít lâu sau ông bà tôi nhận được thư từ miền Bắc gửi vào, đó là thư của bác ruột, anh cả của bố tôi. Sở dĩ bác biết được địa chỉ gia đình tôi là nhờ cụ HT ở Hà Nội vẫn đôi khi thư từ với người con gái cụ ở Sài Gòn trước năm 75 qua trung gian bên Pháp.

Bác tôi đã mất liên lạc với gia đình khi ông bà tôi di cư vào Nam năm 54, tôi không biết hoàn cảnh của bác có giống tôi ngày nay không? Nhưng qua thư tôi biết thêm anh chị họ tôi và những người thân khác bên kia vĩ tuyến 17. Cũng qua thư bác, tôi mới thấy một nghịch cảnh trong gia đình: hai anh em hai chiến tuyến. Bố tôi ‘lính của cụ Ngô,’ còn bác tôi ‘bộ đội cụ Hồ.’ Chỉ có một điều may mắn là hai anh em đã không chĩa súng vào nhau mà bắn. Cả hai đã sống sót qua cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn.

Bác tôi cũng ngạc nhiên khi biết tôi không phải như những gì mà báo chí miền Bắc tuyên truyền: thanh niên miền Nam hư đốn, sa đọa, đồi trụy bị Mỹ đầu độc, v.v…
Ngày bác tôi và tôi đi thăm bố tôi trong trại “cải tạo” Long Giao, bác tôi và bố tôi đã không nói được nhiều dẫu có thể muốn nói rất nhiều, đã không ôm nhau, tay bắt mặt mừng sau hơn 20 năm xa cách.

Phải chăng chiến tranh và các chủ nghĩa ngoại lai đã làm cho hai anh em khác chiến tuyến lãnh đạm, thờ ơ với nhau. Nhưng tôi vẫn tin rằng dẫu có thể khác nhau nhiều về chính kiến nhưng cả hai vẫn có tình anh em, máu mủ ruột thịt, cùng bố cùng mẹ.

Ðiều mà tôi quí bác là sự thành thật ban đầu. Bác quan tâm việc học của tôi, lo lắng vấn đề lý lịch của tôi sẽ bị ảnh hưởng việc thi vào đại học. Tôi đoán chừng bác tôi cũng bị xem xét lý lịch khi có bố mẹ và các em di cư vào Nam. (Phải chăng bác tôi đã phải trung thành với chế độ để con cái đỡ cơ cực về lý lịch? Phải chăng đó là cách hy sinh đời bố, củng cố đời con?)

Mà đúng như vậy, tôi đã rớt kỳ thi vào Y Khoa sau khi tốt nghiệp trung học năm 76. Chị họ tôi cũng từng nói qua kinh nghiệm của chị: họ chỉ ưu tiên cho những thành phần “cơ bản” vào đại học. “Thành phần cơ bản là gì?” Tôi hỏi. Chị trả lời: Là thành phần ba đời ăn củ chuối. Tôi chẳng biết củ chuối ra sao và có lẽ tổ tiên ông bà tôi cũng chưa bao giờ phải ăn củ chuối.

Bố tôi đã đi “cải tạo”. Cô tôi đã di tản và tiệm cho thuê sách của cô đã đóng. Hơn mười một ngàn cuốn sách bị tịch thu vì bị xem là “văn hóa phẩm ph.... đ.... và đồi trụy,” kể cả những sách “Học Làm Người” của Nguyễn Hiến Lê. Nhà chỉ còn tôi và ông bà nội. Cuộc sống vẫn bình thường mặc dù thiếu thốn hơn xưa. Không thể nào dễ dàng mua miếng thịt bó rau như trước. Lương thực, thực phẩm, vải vóc được phân phối theo đầu người. Ði lại cũng khó khăn hơn, phải xin phép mới được. Thẻ căn cước được thay bằng chứng minh nhân dân. Sổ gia đình được được thay bằng sổ hộ khẩu để dựa vào đó chính quyền mới sẽ kiểm soát chặt chẽ từng người, thậm chí cả cái dạ dày mỗi người. Ðúng là “bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới được phần may ô.” (5).

Chuyện đói no tôi không quan tâm lắm, gia đình vẫn còn đủ dự trữ để sinh sống dù kém hơn xưa. Ðiều tôi lo là mẹ tôi. Tờ báo mới, Sài Gòn Giải Phóng, đưa tin những người Việt ở Guam “đấu tranh đòi trở về nước.” Tôi lo nếu mẹ tôi về thì bà phải đi “kinh tế mới,” nghĩa là phải về vùng quê cày sâu cuốc bẫm. Rất may mẹ tôi rất sợ c.... s.. và không về, không bao giờ về dẫu cho đến ngày bà qua đời trên đất Mỹ. Tôi không hình dung được cái sợ c.... s.. của mẹ tôi như thế nào nhưng tôi chắc bà bị ám ảnh ghê gớm bởi ký ức các cuộc đấu tố khủng khiếp, long trời lở đất trên quê hương của bà.
Sau khi rớt đại học tôi hiểu thêm số phận của mình trong chế độ mới. Việc tiếp tục học trở nên diệu vợi.
Một người bạn hàng xóm rủ tôi đi xin việc ở một công ty chất đốt, thực chất là công ty bán than, than bùn được vo lại thành cục mà người ta gọi là than quả bàng.
Ðơn xin việc chẳng qua là tờ khai sơ yếu lý lịch với yêu cầu phải thành thực. Ngày tôi đi xin việc cũng là ngày tôi không bao giờ quên. Trong phòng thu đơn xin việc của tôi là một người đàn ông trung niên môi thâm, da sạm như sốt rét ngã nước trong chiếc áo xanh lá mạ của bộ đội. Mặt lạnh như tiền, ông ta xem đơn của tôi rồi gạt sang bên và bảo tôi đi về. Không biết vô tình hay cố ý, ông gạt khá mạnh và tờ đơn rơi xuống đất. Tôi cúi xuống nhặt và nhìn thẳng vào mắt ông ta không nói nhưng ngầm cho ông biết tôi có khả năng làm hơn cái công việc xúc than đem bán.

Bài học thứ hai trong đời tôi là sự phân biệt đối xử, con người đã được xem xét qua chủ nghĩa lý lịch chứ không phải năng lực. Ai đó đã nói: Loài người làm nên lịch sử, thì tôi cũng phải thêm vào: Con người cũng là nạn nhân của lịch sử. Không ai có thể chọn một gia đình hay một xã hội để sinh ra, thì cũng đừng dựa vào đó để đánh giá và phán xét.

Tôi không thể ăn không ngồi rỗi mãi. Con đường còn lại dành cho tôi là “thanh niên xung phong” mà vài người bạn cùng trường cũng chịu số phận như tôi. Ngày ra quân tại sân vận động Cộng Hòa với hơn chục ngàn thanh niên, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thanh niên xung phong (TNXP) là trường đại học lớn cho các em.” Tôi không biết đó có phải là đại học hay không, nhưng tôi biết nơi đó không có thầy cô và sách vở, không có bảng đen và phấn trắng, mà chỉ có cuốc xẻng, với hai bộ quần áo, đôi dép râu, và chiếc nón tai bèo. Tôi thầm nghĩ chẳng lẽ đời mình phải ăn củ chuối sao?

Ai đó đã làm hai câu thơ tả Thanh Niên Xung Phong “Ðôi dép râu giẫm nát đời son trẻ/ Nón tai bèo che khuất ánh Thái Dương.” Nhưng tôi vẫn lạc quan tin rằng bĩ vận sẽ qua đi. Còn trời, còn đất, còn non nước/ Có lẽ ta đâu mãi thế này (6).

Năm 78, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ giữa Việt Nam và Khmer đỏ. Nhiều đơn vị TNXP được chuyển đến chiến trường để hỗ trợ cho bộ đội. Ðơn vị tôi cũng rục rịch di chuyển. Trong lao động có nhiều thanh niên xung phong đã chết hay bị thương vì cuốc phải bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Huống hồ nay chúng tôi sắp sửa bị ném vào nơi bom rơi đạn nổ, khó mà tránh khỏi nguy cơ thương tật hay chết một cách lãng nhách.

Tôi không muốn làm “dân đen bị nướng trên ngọn lửa hung tàn” hay “con đỏ bị vùi dưới hầm tai vạ” (7) nên đã tìm cách xuất ngũ. Ông bà tôi đã xin cho tôi về vì lý do già cả neo đơn. Tôi trở về Sài Gòn làm phụ kế toán của hợp tác xã tiêu thụ phường và tự ôn bài để thi lại Y khoa năm sau. Lần này tôi may mắn được vào đại học, có lẽ do sự nới rộng chính sách tuyển sinh. Ðúng ngày nhập học đầu tiên thì anh họ tôi, người bị kẹt lại với tôi trong tòa Ðại Sứ Mỹ, tới nhà rủ đi vượt biên với bác Th., anh rể của mẹ tôi, và hai người con trai của bác. Tôi không có ở nhà để theo họ. Tất cả đều mất tích ngoài biển. Bố tôi sau đó được thả. Ông quyết định vượt biên. Ông và tôi đi một lần thất bại. Lần thứ hai tôi không đi, còn bố tôi đi thì bị bắt, lại vào tù. Phải chăng số tôi có lẽ không chết, không bị tù, chỉ khó nhọc thôi? Bây giờ thì chỉ chờ mẹ tôi bảo lãnh đoàn tụ gia đình. Cuối cùng bố tôi và tôi đặt chân đến Mỹ cuối năm 1984 sau gần mười năm sống với chủ nghĩa xã hội và hiểu thực chất nó là gì.

******************************

Bốn mươi năm trôi qua như chớp mắt, từ cậu thiếu niên 17 tuổi ngày nào nay sắp sửa 60. Da đã đốm mồi, tóc đã nhuốm bạc và thưa. Vật đổi sao dời, số phận tôi thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Nhìn lại quãng đời đi qua, tôi cảm thấy mình còn may mắn hơn nhiều người. Không tật nguyền hay chết vì bom đạn, không bỏ xác ngoài biển khơi, không bị tù đày như nhiều người khác. Tôi cũng may mắn tiếp tục học xong đại học, có nghề có nghiệp, không phải tha phương cầu thực ở xứ người. Tôi cũng may mắn được người bạn đời đảm đang, quán xuyến giúp tôi có cuộc sống tươm tất như ngày hôm nay.

Nhưng điều mà tôi mãn nguyện nhất là thế hệ sau của tôi được sinh ra và lớn lên trong môi trường lành mạnh, trong một xã hội nhân bản và tử tế để có cơ hội làm người tử tế, sống ngay thẳng và thành thực với chính mình. Nó được đối xử công bằng, bình đẳng, và không phải đương đầu với những kẻ quyền thế vô lại, không phải xin xỏ sự ban ơn của chế độ toàn trị.

Nước Mỹ đã trở thành quê hương thứ hai của gia đình tôi. Ðất nước Việt Nam nơi tôi sinh ra và lớn lên vẫn còn đó, nhưng xã hội Việt Nam đã tha hóa rồi, nó đi đâu về đâu thì tôi không thể nào biết được.

Chú thích:

(1) Mượn và đổi lời nhạc “Tiễn Em” của Phạm Duy thành “tiễn anh.”

(2) Lời xưng tội “mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa.”

(3) Chuyện ông nội tôi kể lại: Sau khi Việt Minh bắt giết Phạm Quỳnh, họ còn muốn thủ tiêu một trí thức khác và giao cho ông nội tôi đi chặn bắt vị này. Nhưng ông nội tôi đã cố ý bê trễ để vị này đi thoát vì biết đó không những là nhà trí thức có nhân cách muốn khai phóng dân trí mà còn là bạn học đồng môn của bố mình. Ðó không ai khác hơn là cụ Tuần Phủ Hoàng Huân Trung, hội trưởng Hội Khai Trí Tiến Ðức, đồng sáng lập với Phạm Quỳnh. Có lẽ sau vụ đó ông nội tôi quyết định từ bỏ Việt Minh. Kháng chiến giành độc lập là điều tốt, nhưng sát hại các trí thức có tâm huyết là một việc ác nhân bất nghĩa. Hội Khai Trí Tiến Ðức đã bị xóa bỏ sau khi Việt Minh cướp chính quyền.

(4) Khoảng đầu năm 76 có một người trung niên tự nhận là người đồng hương đến thăm ông nội tôi mà ông tôi không biết được gốc gác người này như thế nào. Thực ra người này đến chỉ để hỏi dò ông tôi có tham gia gì cho chính quyền Sài Gòn trước đây hay không. Ông nội tôi từ khi rời bỏ kháng chiến đã không màng đến chính trị nữa và trở lại nghề dạy học rồi làm công chức cho Nha Học Chính đến ngày về hưu năm 1967.

(5) Lời thơ Kim Vân Kiều của Nguyễn Du “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao” đã được ai đó sửa lại.

(6) Mượn lời thơ “Than Nghèo” của Nguyễn Công Trứ.

(7) Mượn lời từ “Bình Ngô Ðại Cáo” của Nguyễn Trãi.

(Sưu tầm)

Thanked by 1 Member:

#194 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 01/05/2021 - 21:09

ĐÀO BUỒN ĐÀO BẬT KHÓC

Tôi rất thích ăn đào hộp, thích từ thuở bé. Mê sao là mê những miếng đào vàng lườm trong nước đường sền sệt, được múc ra từ những lon thiếc cao, tròn.

Thuở quân đội Mỹ còn trú đóng ở miền Nam Việt Nam, những hộp đào này được bố mẹ nhờ ai đó mua từ trong PX (Post Exchange: Một nơi bán những đồ gia dụng cho quân nhân Mỹ ở Sài gòn) hoặc mua ở khu chợ Dân Sinh, nơi chuyên bán những đồ hộp của quân đội, về cho con ăn.
Không phải ngày nào cũng được ăn đâu, mà lâu lâu mới được khui một hộp để cả nhà chia nhau mỗi người vài miếng bỏ đá bào vào nhâm nhi tráng miệng. Hoặc giả bữa nào ai trong gia đình được thưởng gì đó, thì mới được khao cho cả nhà ăn thả ga.

Và hôm ấy ... đặc biệt!
Anh em chúng tôi không phải đi học.
Đã vậy, chẳng thưởng gì ai mà được khui tới những 2 lon đào hộp to. Thêm cả hộp nho khô thật to cũng được khui ra, rồi nào bánh bích-qui (biscuit), đồ khô, ối chao ... ê hề...
Mẹ không nấu cơm, anh em chúng tôi được ăn đồ tráng miệng thế cơm trưa, anh nào anh nấy sướng ... tê người.

Trời vừa mới xế trưa mà đã hầm hập, nóng lắm. Đã thế cửa chính lẫn cửa sổ chả hiểu sao còn bị đóng kín bưng chẳng mở toang đón gió như thường ngày!
Ngoài đường thỉnh thoảng có những tiếng xe máy rồ ga chạy thật vội vàng đâu đâu xa xa. Rồi lâu lâu, lác đác một vài tiếng súng nổ vu vơ...

Hàng xóm lẫn trong nhà chúng tôi thì im phăng phắc, chỉ có tiếng rào rạo nhai đồ khô trong miệng của anh em chúng tôi là rõ mồn một...

Bố mẹ không ăn. Cả nhà đang tụ hết lại ở trong phòng khách.
Hai ông bà nhỏ to bàn tán gì đó với khuôn mặt thật lo lắng & nghiêm trọng lắm. Chiếc radio nho nhỏ chạy bằng pin đang được bố nâng lên tận tai mà chả thấy phát ra tiếng gì ngoài tiếng rè rè của sóng...

Không ai để ý ai.
Tôi sung sướng, đang tự tác tẩm ngẩm múc thêm đào từ hộp vào chén của mình thì bị giật mình vì chiếc radio bỗng ọ ẹ rồi phát tiếng nói. Giọng trầm trầm của một người đàn ông chậm rãi, từ tốn, buồn buồn.
Bố vội xoay xoay cái nút mở volume cho to lên thêm. Mải lo ăn nên tôi chẳng màng để ý người đàn ông kia nói gì cho lắm, đại loại như là:

- "Tôi là tổng thống Dương Văn Minh..., buông súng đầu hàng..., để tránh đổ máu..., ...chuyển giao chính quyền ", gì gì đó...

Dường như cái radio nhỏ kia bỗng trở nên nặng nề hơn gấp bao lần, bố chẳng còn nâng nổi nó lên bên tai... Bố và mẹ, hai ông bà mỗi người một hướng mà lịm người đi, chẳng còn ngó nhau!
Rồi một chập sau, chiếc radio lại ọ ẹ rồi oang oang vang lên giọng Bắc thật Bắc sắc lẻm và đầy sự đắc thắng của một người đàn ông khác với những ngôn từ thật lạ tai: -

- "Đây Ủy Ban quân quản thành phố Sài Gòn..."

Mẹ lúc này như chẳng còn kìm nổi, bà bật khóc lên. Ban đầu chỉ rấm rứt rồi dần chuyển qua thảm thiết hơn:

-"Ôi ông ơi là ông! Chúng tôi đã chạy ông đã bao năm rồi nay giờ sao lại gặp lại thế này... Hức hức hu hu hu..."

Ngạc nhiên buông muỗng đào xuống, tròn xoe cặp mắt ngó mẹ... Mẹ đang kêu "ông" nào thế nhỉ???

Mẹ, tay ôm mặt, hai vai rút lại, rung lên từng chập theo cơn khóc nức... Bố cũng như mất hẳn vẻ bình tĩnh thường nhật, ông hơi lảo đảo đứng dậy, mở khẽ cánh cửa tủ, lục đục lượm lặt vài món gì trong đó. Ông cuộn chúng lại cùng với lá cờ, vuốt nhẹ như vỗ về, rồi bắc thang, leo lên và nhét sâu vào cái hộc trên nóc nhà...

Ngoài đường có tiếng lao xao, mẹ hoảng hốt dáo dác, im bặt tiếng khóc. Bố trở vội lại phòng khách gom hết anh em chúng tôi lại ôm trong vòng tay. Bố khẽ nói, có thể thấy ông đang thật ráng để giữ bình tĩnh:

- "Bắt đầu từ giây phút này sẽ có nhiều thay đổi trong đời sống của gia đình chúng ta. Không biết rồi tốt xấu sẽ ra sao, nhưng bố muốn rằng các con phải can đảm lên..."

Và rồi bố nghẹn... nhưng vòng tay ôm của ông kéo chúng tôi vào, xiết chặt hơn.
Mẹ cũng tiến vội lại...
Cả nhà im lặng ôm nhau trong tiếng xụt xịt của mẹ...

Tôi vẫn còn ngậm miếng đào mềm, ngọt lịm trong miệng, nhưng chẳng dám nhai...

Ngày hôm ấy - 12 giờ rưỡi trưa của thứ tư 30 tháng 04 năm 1975. Ngày Sài-gòn thất thủ, chính thể Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam xụp đổ!!!

Cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn mê ăn đào hộp.
Không mê đến nỗi phải đi ra siêu thị mua về ăn hàng ngày, nhưng lâu lâu thấy ở đâu đó có để cho ăn tráng miệng thế nào cũng phải bỏ vài miếng vào đĩa để dành, để ăn sau cùng.
Nhưng mỗi lần ăn về sau này, trăm lần như một, lúc nào cũng thấy đào tuy vẫn ngọt như xưa nhưng dường như có pha đậm theo vào một tí muối mặn của những giọt nước mắt mẹ khóc năm nao.
Phải chăng đào cũng biết buổn, đào cũng... bật khóc theo mẹ từ dạo tháng 04 năm ấy?!

Don Hồ
3:43 sáng 28 tháng 04, 2010. 35 năm sau vào một đêm rả rích mưa...
-------------------------------

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·





Ông Lê Quang Uyển nguyên Thống Đốc Ngân Hàng thời VNCH, sau 75 bị bắt đi học tập cải tạo. Ông có một bà vợ ngoại quốc tên là Geneviève. Hai lần bà ôm quà thăm nuôi đi thăm chồng ở trại cải tạo, thấy mặt mà không được thăm hỏi, vì... bị phạt:

1/ Khi anh cán gọi tên người đi thăm, ảnh đọc tên Tây Geneviève của bà là (Ge ne vè), bị cười rần chọc quê. Nực gà ảnh bắt ổng Uyển vô , đuổi bà vợ về .

2/ Rút kinh nghiệm lần thăm sau, họ nhịn cười khi nghe tên tây của mình biến dạng. Nhưng vừa gặp nhau , họ đã ôm chầm nhau hun liền. Thế là bà vợ bị đuổi về , ông Uyển bị lôi cổ vô trại , sau một màn rủa mắng là đồi truỵ làm trò nhố nhăng của “Mỹ Nguỵ“

(Kể lại theo lời kể của ông anh mình “học tập cải tạo “chung trại với ông)

Thanked by 1 Member:

#195 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3831 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 01/05/2021 - 21:20

Hai Hình Ảnh - Môt Cuộc Đời
BĐQ Đoàn Trọng Hiếu
1. Chuyện của Dương
Hôm ấy, chỉ một ngày sau cái ngày tang thương của đất nước, toàn bộ sinh hoạt trong Tổng Y Viện Cộng Hoà nhốn nháo hẳn lên. Từng đoàn người hung bạo với AK trong tay tủa vào lùng sục đuổi xua các thương binh đang nằm điều trị. Nhiều tràng đạn AK vang lên từ những dãy nhà trong khu Tổng Y Viện
- Đm chúng mày có ra không không ông bắn chết hết bây giờ.
Nhiều thương binh vừa mới giải phẫu hôm qua hay vài ngày trước đó còn đang mê man trong phòng hồi sinh đã bị lật xuống khỏi giường:
- Đm, thằng này mày ngoan cố hả? Ông bắn bỏ mẹ bây giờ!
Toàn là giọng Bắc, giọng miền Bắc CS, nghe khô khốc như những tràng AK được chúng bắn lên trời để thị uy. Tiếng rên la vì đau đớn, tiếng ơi ới gọi nhau tìm sự giúp đỡ của những người đồng cảnh ngộ vang lên khắp nơi. Từng đoàn thương binh kẻ lê, người lết kéo nhau đi ra phía cổng trong nỗi hoang mang lo sợ tột cùng. Có người không chịu nổi đã chết ngay khi vừa bò ra tới gần cổng bệnh viện. Máu mủ bông băng loang lổ đầy trên mặt đường.
Vào nằm trong Cộng Hoà cũng đã mấy tháng nay, vết thương nơi cái chân phải bị cưa cũng còn đang mưng mủ và rỉ máu, Dương vội quơ lấy chiếc nạng rồi cùng nhiều anh em dìu nhau lết ra phía cổng. Phía sau là bọn bộ đội CS điên loạn như con thú say mồi hối thúc la hét.
Những mũi súng lạnh đến rợn người được chĩa vào lưng hối thúc những người bất hạnh, cũng như những viên đạn sẵn sàng ghim vào lưng ai đó nếu có hành động phản kháng. Khi ngang qua một khu điều trị, thấy một cái chân giả của ai, có vết thương hơi gống Dương, có lẽ vì quá sợ hãi bị rớt ra mà cũng không dám dừng lại để gắn vào. Dương quơ vội gắn vào chân mình rồi tiếp tục lê lết cà nhắc bước đi.
Ra đến cổng chính của Tổng Y Viện Cộng Hoà, một hình ảnh thật thương tâm đập vào mắt Dương. Hàng ngàn anh em thương binh nằm la liệt trên lề đường hoang mang không biết phải làm gì, đi đâu, về đâu trong tình trạng khốn khổ như thế này? Nhưng một hình ảnh cũng lại thật vô cùng cảm động và có lẽ là hình ảnh cảm động nhất trong suốt chiều dài của cuộc chiến tranh “Bảo Quốc An Dân”, những người dân chung quanh TYVCH là những người ở lại bên cạnh anh em vào giờ thứ 25. Họ phóng sang phía cổng dìu cõng những anh em không đi nổi, săn sóc băng bó lại vết thương cho những anh em đang chảy máu, uỷ lạo tinh thần qua những ly nước điếu thuốc, dốc những đồng tiền cuối cùng còn có được để anh em có chút lộ phí đón xe về quê.
Tôi không thể nào quên những tình cảm biểu lộ tình dân tộc nghĩ đồng bào trong khu vực này. Bọn Việt Cộng sẽ phải trả lời trước lịch sử về hành động dã man khi đuổi anh em thương binh VNCH ra khỏi các quân y viện sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm.
Một cô gái dúi vội vào tay Dương một ít tiền,
- Anh cho em gởi ít tiền. Chúc anh về bình yên.
Chưa kịp có lời cám ơn thì cô đã chạy vù sang phía bên kia cổng. Dương đứng tần ngần ngó theo miệng lẩm bẩm lời cám ơn mà nước mắt trào ra. Đang đứng thẫn thờ thì một thanh niên tấp xe Honda vào hỏi,
- Anh về đâu để em chở anh về.
Thôi thì “thắng về nội, thối về ngoại”, ý nghĩ nơi đầu tiên mà chàng phải trở về đó là Chơn Thành nơi có người vợ chỉ vừa mới cưới được hơn một tháng thì chàng bị thương,
- Tôi về Chơn Thành - Bình Long, anh cho tôi ra ngã tư Bình Phước.
Leo lên xe nhờ có chiếc chân giả lượm được nên Dương ngồi cũng thăng bằng. Gia tài của chàng bây giờ chỉ còn có cặp nạng và thêm chiếc chân giả hơi ngắn không đúng kích cỡ, cộng với số tiền cô gái dúi cho cuộn tròn trong túi áo. Đến ngã tư Bình Phước chàng móc tiền ra đưa người thanh niên chạy Honda nhưng anh ta từ chối,
- Em tiếc không chở anh về Chơn Thành được vì quá xa. Thôi em phải về để chở anh em khác.
Nói xong anh ta quay ngoắt chiếc xe tống mạnh ga ngược về hướng Sài Gòn. Thì ra cuộn tiền là năm tờ giấy hai trăm, một ngàn đồng số tiền gần tương đương 1/10 tiền lương hạ sĩ của chàng. Đối vớ cô gái thì đây là số tiền khá lớn. Vậy mà cô ta dúi vào tay mình một cách thản nhiên như người ta cho một đứa bé một cục kẹo. Mà cô ta chẳng phải chỉ cho riêng mình chí, ít ra thì cũng thêm vài người nữa. Dương ngẩn ngơ không tìm được câu trả lời. Tại sao cô gái này lại tốt như vậy?
Đường xá thật vắng vẻ, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe gắn máy đèo hai ba người hay chở đầy đồ đạc chạy về hướng Bình Dương. Có lẽ mấy ngày trước họ chạy giặc nay thấy cùng đường rồi nên lại quay về. Đến gần tối mới có một chiếc xe đò chở chật cứng người. Anh giơ tay ngoắc, người lơ xe vỗ vào thùng xe ra dấu để tài xế ngừng xe lại, kéo Dương lên đứng phía đàng sau rồi la lên cho tài xế chạy. Cú kéo quá mạnh làm Dương lạng quạng chút xíu nữa làm rớt cặp nạng. Một vài người ngồi sau thấy Dương thương tật tỏ ý muốn nhường ghế nhưng cũng không có chỗ để đứng dậy nên đành chịu.
Khi xe chạy qua Búng (Lái Thiêu), phố xá lạnh lùng buồn thảm lần lượt hiện ra trước mắt Dương. Vào đến Bình Dương thì trời đã tối hẳn, xe vào trong bến xe vắng lặng thả khách. Dương bước xuống xe ngơ ngác. Một vài người xe ôm chạy tới mời chào nhưng khi nghe anh muốn đi Chơn Thành họ đều từ chối vì đoạn đường trên 40 cây số chỉ mới khai thông được hơn nửa tháng. Một anh xe ôm hẹn Dương sáng sớm mai sẽ trở lại để chở anh đi. Mọi người đã tản mát ra về chỉ còn lại một mình trên bến xe, Dương lủi vào một góc tối tìm chỗ ngả lưng qua đêm. Anh mong được chợp mắt vài giờ sau cả một ngày vừa đau đớn vừa mỏi mệt, nhưng đôi mắt cứ mở thao láo nhìn vào khoảng trống đêm đen. Trong đêm đen dĩ vãng lại hiện về trước mắt Dương.
o O o
Ngày ấy, đang từ một thanh niên chuyên nghề bốc vác gạo ở dưới Miền Tây, nhân một chuyến theo xe chở gạo lên Sài Gòn khi xe chạy ngang một trạm tuyển mộ nhập ngũ nằm trên đường Hùng Vương, anh chợt nảy sinh ý định đăng lính. Anh kêu người tài xế ngừng xe và nhờ người bạn cùng bốc vác về nhắn với gia đình là anh tình nguyện vào lính và sẽ tin cho gia đình biết sau. Khi đó anh gần tròn 18 tuổi.
Tại trạm tuyển mộ, khi anh được hỏi muốn đăng lính nào, không chần chừ anh nói xin đăng lính Biệt Động Quân. Anh chọn lính này vì thực ra những năm 70-71, ngoài Địa Phương Quân và Bộ Binh thì anh chỉ thấy có lính Biệt Động Quân ở dưới Miền Tây. Thế là ngay buổi chiều anh được chở về trại Đào Bá Phước nằm trên đường Tô Hiến Thành, rồi vài ngày sau một chiếc C123 chở gần 150 tân binh ra Nha Trang và được xe GMC đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Sau này anh còn được cho biết người ta gọi đây là Trung Tâm Tàn Phá Sắc Đẹp với tượng người lính BĐQ Sát bằng đồng đen cầm súng có gắn lưỡi lê trong tư thế cận chiến với quân thù. Sau ba tháng huấn luyện nếu không đen như bức tượng đồng thì sẽ không ra trường. Lời nói không sai, sau ba tháng dầm mưa dãi nắng cộng thêm với thuốc TAB anh nào anh nấy mặt mày chân tay đen đủi bóng lưỡng vạm vỡ khác xa lúc vừa mới vào.
Anh lại được đưa về Sài Gòn và phân bổ về Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Hai chiếc xe GMC chở gần 70 anh em tân binh về Trại Phan Hạnh, hậu cứ của LĐ3 BĐQ nằm tại Thanh Hóa, Hố Nai. Tại đây, anh được bổ sung về Tiểu Đoàn 52 BĐQ và nhận tờ giấy phép 7 ngày thăm gia đình.
Hết phép, anh cùng hơn hai mươi anh em được chở lên đơn vị hành quân, đang hành quân tại Suối Đá Tây Ninh. Sau đó, cùng vài anh em nữa anh được bổ sung cho ĐĐ4. Vài ngày sau tiểu đoàn nhảy vào Bình Long, anh tham dự trận đánh đầu tiên và cũng là trận đánh lớn nhất trong đời quân ngũ của mình. Hai thằng bạn cùng khóa là thằng Báu bị thương, thằng Sắc hy sinh vào những ngày giữa tháng tư. Sau gần ba tháng tử thủ và phản công, đại đội anh đã góp phần đập tan âm mưu bao vây đánh chiếm An Lộc, Bình Long.
Sau đó tiểu đoàn lại được bốc về giải tỏa Phước Tuy, Dầu Giây Hưng Lộc, Trảng Bom. Rồi trong trận giải toả Búng đụng với thằng D429 đặc công, thằng Long cùng khóa lại hy sinh, như vậy là 4 thằng cùng khóa về ĐĐ4/52 chỉ còn lại mình anh.
Ngày theo tiểu đoàn xuống Chơn Thành vào đầu năm 1974, anh gặp một người con gái tuy nhan sắc không sắc xảo mặn mà nhưng cũng dễ coi, chân quê thuỳ mỵ. Sau vài tháng đi lại làm quen rồi yêu nhau, giữa năm hai người làm đám cưới. Trong bữa tiệc mừng đông đủ họ hai bên, đàng trai gồm toàn những anh em cùng đơn vị.
Hương lửa đang nồng thì tháng 10 trong một trận đánh tại phía nam ấp Xóm Ruộng anh bị trúng đạn pháo cụt mất cẳng chân phải. Vì giao thông đường bộ không có nên vợ anh chỉ hai lần được tháp tùng trực thăng về căn cứ Long Bình, Biên Hoà để lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm anh.
Rồi đầu tháng 4/75, anh đang nằm tại TYV Cộng Hòa thì Chơn Thành đánh lớn. Đơn vị di tản không biết ai còn ai mất? Người vợ yêu thương của anh không biết bây giờ nàng và gia đình ra sao? Nghĩ đến đây tự dưng anh chắp tay lên ngực thầm thì van xin “Lạy trời cho vợ con được bình an” mà nước mắt tuôn trào…

Sáng sớm hôm sau, y hẹn người lái xe ôm đến từ mờ sáng. Anh ta đảo quanh một vòng và thấy Dương đang gắn chiếc chân giả vào. Anh ta chạy xe lại và đưa cho Dương trái bắp luộc.
- Anh ăn đỡ rồi lên xe, phải anh là lính mình bị thương không?
Dương chỉ gật đầu vì miệng đang nhai bắp, cả ngày hôm qua cũng đã có cái gì vào bụng đâu nên ăn ngấu nghiến. Thấy vậy anh chàng ta nói luôn,
- Em chỉ xin anh cho em một trăm tiền xăng thôi, hai ngày trước khi “mấy ổng” vào thì anh em ở Bệnh Viện 3 Dã Chiến bị đuổi ra thật tội nghiệp. Lúc đó Sài Gòn chưa bị chiếm nên họ đâu có cho ai đi ra khỏi tỉnh, vì thế anh em phải lủi vào nhà dân xin tá túc. Nhưng lúc đó dân mình cũng sợ quá chỉ cho ăn và biếu chút tiền chứ có ai dám chứa ở trong nhà. Họ mà bắt được thì toi mạng, nhất là cái đám du kích ở miệt vườn bây giờ nó thò mặt ra cùng với đám cao bồi du đãng đeo băng đỏ thấy mà phát ớn. Thôi anh lên xe mình đi chừng giờ sau là đến à.
Xe chạy qua khỏi Lai Khê thì đường bắt đầu xấu loang lổ vì bom đạn, đó đây những lỗ mìn chống chiến xa của quân ta gài ngăn cản chiến xa của chúng tiến xuống đã được gỡ đi. Qua Rạch Bắp đến Bầu Bàng, xe chạy lạng qua lạng lại tránh những hố bom đạn, vì thế anh phải ôm chặt lưng anh “tài” cho khỏi té. Ngang qua chỗ anh bị thương, anh chỉ vào phía bên trái đường và nói,
- Chỗ này và ở sâu trong kia một chút là nơi tôi đã để lại khúc cẳng này. Qua cái cầu cạn này là vào Xóm Ruộng, lên tới ngã ba Chơn Thành anh quẹo phải chạy về hướng Đồng Xoài, đến Nha Bích là nhà vợ tôi. Lạy Trời cho vợ con được bình yên!
Nghe anh cầu xin anh chạy xe ôm lấy làm ngạc nhiên hỏi,
- Thế anh không có tin gì của vợ anh sao?
- Tôi bị thương, lần cuối nàng lên thăm tôi hôm tháng hai, rồi chiến sự nổ ra ác liệt tại Chơn Thành, tôi đâu có được tin tức gì. Lạy trời cho vợ con được bình yên!
- Tôi tin là chị được bình yên, vì tôi là người Công Giáo, tôi tin lời anh cầu xin sẽ được nhận lời.
Theo lời hướng dẫn của anh, xóm Nha Bích với gần ba chục nóc gia nay chỉ còn hơn mười cái. Kia rồi ngôi nhà của cha mẹ vợ anh vẫn còn đó, Ngôi nhà tranh vách đất nơi che nắng che mưa của ông bà cùng bốn người con trong đó vợ anh là lớn nhất vẫn còn kia. Khi xe vừa ngừng anh muốn tung cặp nạng rồi chạy túa vào, nhưng anh không chạy nổi vì cái chân giả không ăn khớp chân thấp chân cao làm anh đau buốt. Nghe tiếng xe ngừng trước cửa, vợ anh chạy ra nhận ra anh. Chị la lớn lên
- “Má ơi! Anh hai, chồng con, về rồi.” rồi ôm chầm lấy anh khóc thổn thức vì sung sướng, không nói được nên lời.
Vợ chồng ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Anh chạy xe ôm thấy cặp vợ chồng đoàn tụ cũng sung sướng lây, anh chỉ nói một câu,
- Thấy chưa! Tôi nói đúng y chang mà! Anh chị trùng phùng hạnh phúc nhe! Thôi tôi dìa. Nói đoạn anh nổ máy xe rồi phóng nhanh ra đường.
Dương chưa kịp buông vợ ra thì anh ta đã mất hút, nghĩ mình hơi tệ, gặp lại vợ mừng quá quên cả trả tiền xe. Anh đâu biết rằng nhìn anh hạnh phúc quá nên người chạy xe ôm cũng muốn tặng anh một món quà cho ngày đoàn tụ.
Vài ngày sau, hai vợ chồng thu xếp mang nhau về quê nội. Nhưng rồi vì bên nội không có lấy một sào đất, mấy anh chị em trong nhà chỉ chuyên cày thuê cuốc mướn nên vài tháng sau lại kéo nhau về Chơn Thành. Mấy năm đầu anh cũng vào tận mãi bờ Sông Bé khai phá lấy hơn mẫu đất trồng trọt khoai mì đậu phụng đắp đỗi qua ngày. Sau này, người ta bắt đầu khai thác lại cao su nên hai vợ chồng xin làm phu cạo mủ cho đồn điền Minh Thạnh cho đến hôm nay.
Hai năm trước đây tình cờ một người bạn thương binh cho một cái địa chỉ của một tổ chức nhỏ yểm trợ thương phế binh, Dương gởi thư sang xin giúp đỡ. Không ngờ người phụ trách lại là người đại đội trưởng cũ của mình. Ông ta gọi điện thoại về thăm và vận động anh em ở đơn vị cũ, cũng như bạn bè của ông giúp cho được vài trăm. Tuy số tiền cũng chẳng lớn lắm nhưng tình cảm của ông cũng như những cấp chỉ huy cũ làm cho anh vô cùng cảm động. Ai cũng đã bước vào cái tuổi xế chiều nhưng vẫn còn nghĩ đến những thằng em bất hạnh hỏi làm sao không trân quý cho được. Mấy lần ông gọi điện thoại về thăm, lần nào anh cũng cầu mong ông có sức khoẻ để thầy trò còn có dịp gặp lại nhau.
Tháng 12 năm ngoái, anh được ông đại đội trưởng cũ báo cho biết số anh em LĐ3 BĐQ tử trận tại An Lộc sẽ được an táng lại. Dương cũng lo thu xếp để có được vài ngày lên Bình Long cùng vài người có lòng nhân hậu làm cái công việc này. Anh nâng niu từng lóng xương của anh em chùi rửa sạch sẽ rồi bọc lại bỏ vào quách đi chôn lại. Vừa làm vừa nghĩ đến thằng Sắc cùng một khóa Dục Mỹ. Mấy ngày trước anh có hỏi ông đại đội trưởng cũ là sao không có thằng Sắc ở đây. Ông cho biết nó được chuyển lên bệnh viện tiểu khu chắc là được chôn tập thể ở khu đằng sau bệnh viện rồi. Tội nghiệp ba nó là ông Sáu đã gần sáu mươi làm tuỳ phái ở Ty Xã Hội Biên Hoà, còn mẹ nó thì lại mù loà. Mấy anh em thuộc đại đội 4 được chính tay anh chùi rửa, trong đó có trung sĩ An là tiểu đội trưởng của anh.
Ít tháng sau, mấy anh em lại cùng rủ nhau đi đào bới gom góp được 44 hài cốt của anh em thuộc Sư Đoàn 18, và 6 anh em TĐ31 BĐQ. Chân thấp chân cao với đôi nạng gỗ, anh đã cùng anh em lên đỉnh Đồi Gió, vào khu Quản Lợi, hay lang thang trong những cánh rừng cao su đào bới tìm hài cốt anh em đã được chôn vùi vội vàng trong những ngày sôi động của Mùa Hè Đỏ Lửa 72. Đôi khi anh nghĩ anh em tử trận nhiều quá mà chỉ có mấy người thì làm sao mà làm hết nổi, nhưng không làm thì ai làm cho bây giờ, thôi thì làm được tới đâu hay đến đó.
Có một lần ông đại đội trưởng cũ điện thoại về cám ơn anh về việc làm này, anh đã nói với ông một câu từ tận đáy lòng anh,
- Tui nghĩ tui còn may mắn hơn nhiều anh em khác, nhất là những anh em đã tử trận này, nên nghỉ vài ngày cạo mủ để cùng mấy anh này đi đào bới cũng vui lắm, ông thầy ơi. Sang năm, nếu rảnh thì bọn này lại làm nữa.

2. Sự suy nghĩ
”Anh em tử trận nhiều quá mà chỉ có mấy người thì làm sao mà làm hết nổi, nhưng không làm thì ai làm cho bây giờ …”, cũng như câu nói của Dương, “Tui còn may mắn hơn nhiều anh em khác.” làm tôi suy nghĩ nhiều. Một người thương phế binh tầm thường, sống lam lũ nghèo khổ, mà còn có tấm lòng với anh em đồng đội xưa kia. Còn tôi, một người may mắn hơn anh mọi mặt, vậy mà không có được cái suy nghĩ như anh. Mỗi lần nói chuyện khi anh gọi tôi là “ông thầy” khiến tôi xấu hổ. Tôi muốn nói với anh, “Trước kia, t*o là ông thầy, còn bây giờ mày là thầy t*o.” nhưng ngượng ngùng không nói được.
Nhân đây, tôi muốn gởi đến quý độc giả tình cảm của những người lính thủy chung nhân hậu, cho dù trong cảnh nghiệt ngã. Như, Trương văn Hùng bị cụt hai chân, sau 40 năm khi được tin bạn hy sinh cũng đã từ Huế lết vào Bình Định tìm cho bằng được thân nhân gia đình bạn báo tin.

Sunday, October --, 2012 --:-- PM
Trước đây tôi ở Đai Đội 3, TĐ52 BĐQ. Tình cờ đọc được tin của anh, tôi mới biết được Tr/U Nguyễn ngọc Tỉnh, đại đội trưởng cũ của tôi và bạn cùng đơn vị, tên Trần Hoài, đã hy sinh tại An Lộc, Bình Long. Tôi quá xúc động vì gần 50 năm tôi mới biết được số phận của người chỉ huy, và thằng bạn thân thương...
Hay của hai người bạn cùng đơn vị gặp lại nhau sau 40 năm, đặc biệt là của cháu Phúc, lên nhận hài cốt của cha rồi tình nguyện ở lại tham gia nhóm thiện nguyện trên. Anh còn giúp cho hai bạn đồng đội gặp lại nhau.

Friday, January 2-, 2012 --:-- AM

Cháu xin chào bác,
Hôm mùng 3 tết, cháu có chở bác Dương, đến thăm sức khoẻ bác Vinh. Bác ấy vẫn khoẻ và gửi lời thăm bác. Sau đó, cháu chở bác Dương đến thăm các bác khác...

Bác Dương đã ở lại với bác Tiên một đêm mà vẫn chưa hết dòng tâm sự.....

Cháu Phúc.
Tố chất nào đã tạo nên những người lính tuyệt vời như vậy? Phải chăng xuất phát từ lòng của người dân Miền Nam cộng với tinh thần “Biệt Động Quân một ngày là Biệt Động Quân trọn đời.” Tôi tin chắc là như vậy.
Tái bút: Đính kèm bài thơ xé ruột nát gan của Nguyễn Thanh Khiết người đã góp phần trong việc cải táng 61 Tử sĩ Biệt Động Quân

Một chân về chôn bạn

t*o một cẳng ôm mầy chôn lần nữa
giữa đất thù nơi mầy chết banh thây
An Lộc còn đây mà t*o mất mầy
mất bè bạn cùng một thời xương máu

tây bắc Bình Long tụi mình hứng pháo
52 dàn ngang mình chận phía Đồng Long
cây cỏ tan hoang máu chảy ngập đồng
vừa đánh giặc vừa chuyền bi-đông rượu

mầy chết – chết khi trời vừa hửng sáng
gom xác mầy chỉ một nắm trong tay
mầy chết – không có lấy tấm thẻ bài
t*o đứt ruột gói mầy bằng áo trận

rồi t*o đi những Bình Ba Bình Giã
Long Khánh, Bình Tuy, từ xa tới gần
trở lại Chơn Thành t*o bỏ một chân
và tàn lụn sau cái ngày tan trận

ba mươi chín năm, t*o – thằng mạt vận
về đây chôn mầy – chôn mấy miếng xương
mầy nằm đó – chẳng ai ngó, ai thương
tội tình chi mà phải nhiều lần chết

t*o cắn răng đưa mầy về với đất
chính chỗ mầy gác súng bỏ cuộc chơi
rót cho mầy rượu đế – một chung vơi
và nhắc mầy nhớ – t*o còn ở lại
06-12-2011
BĐQ Đoàn Trọng Hiếu
Viết thay hạ sĩ Dương ĐĐ4, TĐ52 BĐQ



Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |