Bản Sấm Kí “Phùng Thượng Thư” – Phùng Khắc Khoan còn gọi là “Sấm Trạng Bùng” lưu trữ tại thư viện Hán Nôm.
Trang cuối cùng xin xem hình ảnh :
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Trích dẫn :
詩云
天下紛紛擾擾攘
誰知圣帝在何方
賢人欲識為臣輔
不在蛮鄕在狄鄕
一字三人同
月無水無火
此圣人之名
右詩
江東岸上但尋常
備敶起陵作帝王
天下都來歸一統
此年出治永延長
右詩
火賢兔儿庶木楊
是圣人水宮竜徳
隐位山字奉火神
豬運興王室
年间六七旬
世傳十六葉
祚流五萬春
又
幻中十三口
以匕結之人
Thi vân:
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương,
Thùy tri thánh đế tại hà phương.
Hiền nhân dục thức vi thần phụ
Bất tại man hương tại địch hương.
Nhất tự tam nhân đồng,
Nguyệt vô thủy vô hỏa
Thử thánh nhân chi danh.
Hữu thi
Giang đông ngạn thượng đãn tầm thường
Bị trần khởi lăng tác đế vương.
Thiên hạ đô lai quy nhất thống
Thử niên xuất trị vĩnh diên trường.
Hữu thi
Hỏa hiền thố nhân thứ mộc dương
Thị thánh nhân thủy cung long đức
Ẩn vị sơn tự phụng hỏa thần,
Trư vận hưng vương thất
Niên gian lục thất tuần
Thế truyền thập lục diệp
Tộ lưu ngũ vạn xuân
Hựu:
Huyễn trung thập tam khẩu
dĩ chủy kết chi nhân.
(HẾT)
Xin giải lại mấy câu về “Thánh Nhân” :
Thi vân:
詩云
天下紛紛擾擾攘
誰知圣帝在何方
賢人欲識為臣輔
不在蛮鄕在狄鄕
一字三人同
月無水無火
此圣人之名
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương,
Thùy tri Thánh đế tại hà phương.
Hiền nhân dục thức vi thần phụ
Bất tại man hương tại địch hương.
Nhất tự tam nhân đồng,
Nguyệt vô thủy vô hỏa
Thử Thánh Nhân chi danh.
Tứ di (四夷) là thuật ngữ miệt thị trong
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
sử Trung quốc hình thành từ thời
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Chu để chỉ các bộ lạc ngoài Trung Nguyên bao quanh Trung Quốc cổ đại
Lý thuyết địa lý Trung Quốc cổ coi "
Trung Quốc" là "
nước ở trung tâm" và người ở đó coi mình là
người đã giáo hóa văn minh, còn xung quanh bốn phương là
Tứ Di hàm ý là thấp kém mọi rợ.
Vùng đất khởi phát của người Trung Quốc là vùng Hoa Hạ(華夏) và là nguồn gốc của các thuật ngữ Trung Hoa, người Hoa.
Các bộ tộc người ở phương đông được gọi là Đông Di (東夷), phương tây gọi là Tây Nhung (西戎), phương Nam gọi là Nam Man (南蠻), và phương Bắc gọi là Bắc Địch (北狄), trong đó các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật", ví dụ
họ khuyển 犭. Ngày nay chữ Hán đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ
Địch (狄).
Nguồn : Wikipedia
Bản đồ Trung Quốc cổ đại :
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Nam Man cũng là tên gọi chung chỉ các dân tộc sinh sống tại các khu vực từ dãy núi Phục Ngưu đến lưu vực sông Hán, trung và thượng du sông Hoài, lưu vực sông Trường Giang, lưu vực sông Châu Giang cho đến cao nguyên Vân Nam, Quý Châu. Các hệ tộc trong đó rất phức tạp: Vùng trung du Trường Giang có Tam Miêu, Sở, Quần Man. Vùng hạ lưu Trường Giang và Châu Giang có Bách Việt. Trung và thượng du Trường Giang có Bộc và Ba Thục. Các nhóm sắc tộc Di vùng Tây Nam cao nguyên Vân Nam - Quý Châu... cũng không chỉ có một tộc hệ.
Người Mông Cổ triều Nguyên lấy Mông Cổ làm trung tâm, gọi người Hán từ sông Hoài Hà về phía Nam là Nam Man, Man Tử.
Thời Mãn Thanh cũng gọi người Hán như thế, Vua quan trong triều đình nhà Thanh gọi các quan lại người Hán là Man tử.
Tên gọi Bắc Địch sớm nhất có khởi nguồn từ thời nhà Chu, là tên gọi chung mà người Hoa Hạ gọi các dân tộc thiểu số phương Bắc.
Từ giữa thời Xuân Thu trở đi, Địch và Nhung có sự khác biệt rõ rệt về khu vực, nhưng trong toàn bộ thời kỳ Xuân Thu cho đến giữa thời Chiến Quốc, Nhung Địch thường được gọi lẫn, có những bộ lạc có cả hai tên gọi là Nhung và Địch.
Đầu thời kỳ Xuân Thu, các nước Tần, Tấn, Trịnh, Vệ về phía bắc, tức vùng miền trung và miền bắc Hà Bắc và Thiểm Bắc và Sơn Tây ngày nay có rất nhiều bộ lạc mạnh, đều gọi chung là Nhung, về phương vị gọi là Bắc Nhung. Đến giữa thời kỳ Xuân Thu lại xuất hiện tên Địch đối với các bộ lạc ở các khu vực đó. Vì ở phía Bắc nên gọi là Bắc Địch. Sau đó khoảng 100 năm lại xuất hiện các tên gọi Xích Địch, Bạch Địch, Trường Địch…
Tham khảo từ nguồn trang :
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Lịch sử Trung Quốc có thể nói là quá trình giằng co, đấu tranh đan xen, giao thoa thống nhất và phân tách liên tục qua lịch sử giữa các bộ lạc, quốc gia, dân tộc, các vùng văn minh khác nhau,
Xem biểu đồ “Lịch sử Trung Quốc”
Nguồn : Wikipedia.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Câu Sấm : “Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương” là ý nghĩa thiên hạ ở trong Trung Quốc chứ không phải là thiên hạ nói chung. “
Thiên hạ phân lâu tất hợp, hợp lâu rồi lại phân”- Ngô Sĩ Liên.
Đoạn sấm này có nghĩa là Quê hương Thánh Nhân là đất “Bắc địch” - 北狄 tức là phía bắc Trung Quốc ngày nay.
一字三人同
“Nhất tự tam nhân đồng” là chữ “Sâm” 森 xum xuê, rậm rạp, chiết tự ra là 03 chữ “Nhân thập” 人十.
月無水無火
“Nguyệt vô thủy vô hỏa” là chữ “Tử” 子- con trai.
Chữ “nguyệt” , nga 月, có cách viết khác là 囝
Chữ “Nguyệt” 囝 bỏ đi chữ “khẩu” 口 “cái miệng, cái mồm” là “
vô thủy , vô hỏa” còn lại chữ “tử” 子.
“Nhất tự tam nhân đồng,
Nguyệt vô thủy vô hỏa
Thử thánh nhân chi danh.”
“DANH” này của Thánh Nhân là “Nhân thập tử” 人十子 là chữ “Lý” 李
Sửa bởi catdang: 07/10/2020 - 15:03