Phi thường cách
Rồi ra ích lợi thế nào, hay tai hại ra sao, cũng có khi chính người viết cũng không được yên thân, và mỗi người, nếu đem áp dụng, lợi hại cũng chưa biết được. Mà phải dựa vào Phúc đức và Duyên lành. Tốt thì gặp được thời, tìm được chân chúa để đem hết sức mình phục vụ lợi ích của dân tộc. Bạc phúc vô duyên thì nhầm lẫn, đáng tìm chân chúa thì không tìm được, lại nhằm ngay tội đồ, thì con cháu của mình cũng bị tủi hổ theo.
Vì thế, về mặt cá nhân thì không muốn viết. Nay viết ra đây, thôi thì đó là tuỳ theo quốc vận. Không biết chân chúa đã ra đời chưa, mà bao năm nay, ngóng mãi mà chăng thấy!!!Để muôn dân đỡ lầm than.
1. Cách nhìn nhận và đánh giá về con người Phi thường
Tư mã Thiên - được coi là một trong Sử gia lớn nhất của Trung quốc – khoảng 2000 năm trước đã nói rằng: “ Từ khi có các nhà viết Sử, thì Lịch sử đã không còn là Sử nữa”.
Chúng ta nên hiểu câu nói của Tư mã Thiên bằng thực trạng của lịch sử như sau:
Thế nào là một nhà viết sử. Chúng ta có thể hiểu nôm na là: Những người ghi chép lại những câu chuyện, những biến cố lịch sử, xảy ra trong đương đại, nhằm mục đích để cho những sự kiện lịch sử được truyền lại cho đời sau. Vậy thì những người viết sử có rất nhiều loại. Có thể phân chia thành hai loại lớn. Đó là những người viết sử trong dân gian, và những người viết sử ăn lương nhà nước.
Nhà viết sử trong dân gian rất đa dạng. Có khi chỉ là những người giang hồ hành nghề kể chuyện. Có khi lại là những người trí thức lưu lạc trong dân gian ghi chép lại những mắt thấy tai nghe. Có những nhà văn nhân dân viết những thiên tiểu thuyết dã sử. Có những người có kiến thức trong bộ tộc, hay làng xã ghi nhận lại những biến cố cuộc đời. ...Rất nhiều. Nhưng có thể nói lên một điểm, hầu hết những người này sống gần gũi với đại đa số nhân dân lao động, họ đồng cam chịu khổ với người lao động, và vì thế họ chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc sống nhân gian, nên các tác phẩm của họ, dù là sách vở hay truyền khẩu đều mang văn hoá dân gian. Hơn hết họ hầu như không chịu sự áp chế bởi sự thống trị về tư tưởng của giai cấp hay nhà nước thống trị. Đó là dấu ấn của sự thật.
Nhưng cũng do ảnh hưởng của văn hoá dân gian, vì thế trong các tác phẩm của họ, không thể tránh được sự tô vẽ nhân vật hay sự kiện mà họ, nhiều khi cũng nhận thức như đó là một tất yếu. Những nhân vật hay sự kiện mà họ mô tả, phần lớn qua lăng kính dân gian mà được tô hồng quá sự thật.
Các nhà viết sử ăn lương nhà nước, lẽ đương nhiên, họ phải phục vụ cho lợi ích của, vì thế dù thế nào đi nữa họ cũng không thể viết hoàn toàn sự thật nếu sự thật đó có tác dụng tiêu cực cho cái nhà nước mà họ đang phục vụ.
Như thế, cái điều mà Tư mã Thiên nói tới tất sẽ phải xảy ra. Rằng sự thật lịch sử, thế nào cũng không còn là sự thật của sự thật qua các ngòi bút của những nhà viết sử. Đi tìm sự thật lịch sử là một công việc vô cùng khó khăn của người đời sau. Có rất nhiều phương pháp để đi tìm sự thật lịch sử. Mỗi phương pháp đều có những gian nan nhất định, cũng chính vì những gian nan này, mà nhiều khi, những sự thật của lịch sử được phơi bày, lại không được phổ biến sao cho chúng trở thành những chân lý của lịch sử. Một trong những ngáng trở lớn nhất đó là thái độ của chính những nhà cầm quyền.
Bởi những con người được xem là phi thường, ứng với những số phi thường, hay còn gọi là phi thường cách. Đều là những con người mà sự nghiệp của họ đều gắn với những giai đoạn lịch sử nhất định của dân tộc. Tách họ ra khỏi tiến trình lịch sử của một dân tộc, họ không còn là những phi thường nhân – hay phi thường cách theo cách nói của các Tử vi gia - nữa. Cũng chính bởi điểm này, việc nhìn nhận và đánh giá một phi thường nhân, không thể cứ khư khư xác nhận theo lối đánh giá con người của thông tục thế nhân được. Cho dù những phi thường nhân, trước hết họ cũng là người thường, họ cũng có những thất tình lục dục, cũng có những tham sân si của người bình thường. Nhưng bởi đã được nhìn qua lăng kính của những nhà sử học, nên những tham sân si của họ không còn là tham sân si của người thường được nữa. Họ được ca ngợi, ca tụng như những vị thánh khi họ là những anh hùng dân tộc, họ cũng sẽ là những tên quỷ sa tăng, với bộ mặt gớm ghiếc khi họ là những tội đồ của dân tộc. Một phi thường nhân, khi này có thể là một anh hùng dân tộc, nhưng khi khác, có thể là một tội đồ của dân tộc. Nói như vậy, không phải đó là do đánh giá của hậu thế, mà thực chất, những việc họ làm cũng khiến cho họ vốn đang là một anh hùng dân tộc lại trở thành một tội đồ dân tộc. Cho dù hậu thế kề cận có ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng về lâu về dài, theo chiều tiến lên của lịch sử, sự thật phải được trả về cho sự thật, dù chỉ là một phần nhỏ nhoi.
Với những bằng chứng như vậy. Hẳn chúng ta, đứng ở góc độ Tử vi, môn học không chịu sự quản thúc hay áp chế của chính trị, cường quyền. Hẳn phải có một cái nhìn thấu đáo, xác thực về Tham Sân Si của phi thường nhân. Đừng nhìn thấy vài giọt nước mắt của họ nhỏ cho số phận của một đứa trẻ bán báo, hay cho những người ăn xin rách rưới mà đã vội cho là họ có tấm lòng như “Lòng Mẹ bao la như biển Thái bình” . Cũng đừng thấy họ khi ở ngôi vị cao sang, từ chối ếp một người thân – dù là ruột thịt – mà đã vội cho họ là bất nghĩa. Cũng đừng thấy khi họ giết người này thì bảo họ là ác nhân, họ cứu người kia thì bảo họ là thiện nhân.
Để có một cái nhìn công bằng cho một phi thường nhân, chúng ta cần có một nhãn quan rộng và lớn hơn. Trước khi đi vào trình bày cái gọi là nhãn quan đó. Mời các bạn quan tâm ghé qua một vài câu chuyện có thật, được trình bày trung thực nhưng dưới dạng bút văn, để chúng ta dễ dàng cảm nhận được dưới nhiều góc nhìn hay quan điểm khác nhau.
Một cách nhìn thấu lộ sự thật
-Câu chuyện : Người đàn bà một thời danh tiếng. (Xin ghi chú rằng câu chuyện này nhiều người đã biết, đã được viết thành sách và được bộ văn hoá kiểm duyệt và cho in)
I. Tay trắng thành Bà chủ.
Súng đã nổ, và Bà Nguyễn đã chết.
Các thành viên của đội hành quyết, xách súng chạy thục mạng vào rừng, ôm nhau khóc nức nở.
-Tại sao lại bắn Mẹ Nguyễn ?. Tại sao ?. - Họ bàng hoàng hỏi nhau.
Hai trong số năm người của đội hành quyết sau đó phát cơn điên, chữa mãi không khỏi. Ba người còn lại thì hai ông gần đây đã chết vì tuổi tác, vì bệnh tật. Người cuối cùng tên Tuấn, năm nay 64 tuổi, tóc bạc như phấn, lưng lại hơi còng và Tết năm nào cũng trốn nhà ra đi.
Ông đi đâu ?. Ông về đúng cái chỗ ngày trước bà Nguyễn đã gục xuống. Thắp hương trên mộ bà, sì sụp khấn vái.
Bà ơi ! Con không bắn Bà đâu ! Không phải con ! Khô ... ô...ng ph...ai... ải . Ông gào lên và nức nở như con nít.
Ông vẫn nhớ như in cái phút giây khủng khiếp ấy ...
Lúc đó, viên đội trưởng đội hành quyết hô liền ba mệnh lệnh:
-Nâng súng !
-Lên đạn !
-Kẻ thù phía trước, bắn !
Ỏ gốc cây trước mặt, bà Nguyễn giật nẩy lên. Máu và tiếng Bà Nguyễn rất rành rõ:
-Hồn tôi sẽ nhập vào cây rừng và chứng kiến cuộc đời của các người.
Viên đội trưởng tiến về phía người bị bắn, đếm to như hét:
-Một, hai, ba, bốn, một phát không trúng đích.
Rồi Y rút khẩu súng ngắn ra, gí sát vào tai bà nguyễn bóp cò.
“Một phát không trúng đích”. Bao nhiêu năm qua ông Tuấn cứ đinh ninh phát súng bắn trượt kia là của ông. Ông vịn vào điều rất mong manh kia để an ủi lương tâm mình mà sống cho đến bây giờ.
Vì tò mò, tôi cũng đã một lần trốn nhà, bỏ tết, bám theo ông Tuấn lên cái bãi bắn ấy.
Tôi vịn vào cây rừng, rồi rụt phắt tay lại, hoảng hốt như vịn vào một người đàn bà đang run rẩy.
Gió thì thầm. Tán lá thầm thì ...
“Có phải bà Nguyễn đấy chăng ! Bà nói đi ! hãy nói thật nhiều, nhưng đừng khóc, thưa bà”.
Chuyện cũ. Vâng ! Lâu lắm rồi, xưanhư một giấc mơ thời thơ ấu. Nhưng tôi vẫn muốn kể lại vì bà Nguyễn là một nhà doanh nghiệp tài ba. Không. Còn một lý do nữa, Tôi yêu bà. Dù bà sinh trước tôi một thế hệ, nhưng chắc chắn là tôi yêu bà.
Trời ơi ! Nếu tôi sinh cùng thời với bà, hẳn ngày ấy tôi cũng được lĩnh năm viên đạn vào ngực như bà và điều đó với tôi là một niềm hạnh phúc, một hạnh phúc vô bờ.
Bà ơi ! Tận bây giờ người Hải phòng vẫn thường nhắc tên bà đấy. Người ta vẫn thường trầm trồ về bà. Người ta nắc nỏm khen một bà chủ vật liệu xây dựng giàu có nhất Hải phòng.
Tôi đã nhiều lần xuống chợ Sắt, đứng ở nơi xưa bà đã đứng, những lối xưa bà đã từng đi.
Nơi bà lập nghiệp lần thứ hai – cái miền trung du xa xôi ấy, tôi cũng đã đến. Ở đó, không biết tự lúc nào và không rõ ai đã xây cho bà một ngôi đền nhỏ, những bác nông dân quê mùa không biết tạc tượng, chỉ mình tôi tạc tượng bà trong tim tôi.
Người ta sinh ra chưa phải là triệu phú. Bà Nguyễn cũng vậy. Hai cụ thân sinh của bà Nguyễn là những người buôn bán nhỏ, không nghèo nhưng cũng chẳng phải là giàu. Như phần đông những người con gái thời ấy, bà Nguyễn lấy chồng sớm. Chồng bà là anh con trai độc nhất của một chủ vựa nước mắm. Cả một đời ông bố trần lưng ra lao động kiếm tiền để cho anh con trai tiêu xài, phá tán. Có lần, anh chở hai thuyền buôn nước mắm lên Hà nội bán, rồi lên phố Khâm thiên chơi một tháng ròng và về nhà với hai bàn tay trắng và cặp mắt lờ đờ như chuột say khói. Sau khi bố mất, anh là người “có tài” trong một thời gian ngắn ngủi đã đẩy cả cơ nghiệp tới chỗ phá sản hoàn toàn. Bà Nguyễn phải giơ đôi vai bé nhỏ gánh lấy cơ nghiệp của nhà chồng, nuôi năm miệng ăn (chồng, mẹ chồng, hai con và bản thân mình). Bà mở một quán ăn nhỏ, bán ngẩu pín, thịt chó, rượu trắng và bún rối.
Chỉ khi Pháp xây dựng nhà máy xi măng Hải phòng, bà Nguyễn mới đổi hướng kinh doanh.
-Tây nó làm nhà bằng gì ?. – Bà Nguyễn hỏi các bác thợ xây.
-Bằng xi măng và sắt.
Thế là bà Nguyễn chuyển sang buôn sắt, vì bà thấy cả nước nam ta chưa cómột nhà máy nào làm ra sắt cả. Mới đầu, kho sắt của bà mới chỉ có vài ba tấn, rồi lên hàng chục, hàng trăm tấn. Về sau, bà Nguyễn thành bà chúa sắt. Những con tàu khổng lồ chở sắt từ Pháp sang cập bến cảng Hải phòng và những chiếc xe cam nhông ùn ùn chở sắt về kho bà Nguyễn.
Làng tôi bấy giờ, hơn tám trăm hộ, đậu trên một cồn cứt sắt lớn. Bởi tổ nghiệp chúng tôi làm nghề nấu sắt. Quốc sử chép rằng: “ Làng Nho lâm, Diễn châu, Nghệ an là trung tâm luyện sắt đầu tiên của người Việt cổ”. Làng tôi sống nhờ nghề sắt, đóng thuế cho nhà vua cũng bằng sắt. Sắt nấu ra, đổ thành cục, thành thỏi, rèn thành liềm, hái, giáo, móc, ...Cứt sắt thải ra, đổ thành cồn, đóng, gò bãi thành thổ cư của cả làng.
Bà tôi kể rằng: “Lần đầu nhìn thấy thanh sắt Tây, cả làng tôi suốt mấy đêm liền không ai ngủ được. Những lò than vẫn cháy. Cả làng vẫn hồng rực lên. Quặng trong nồi hông vẫn chảy ra, sáng đến nhức nhối cả con mắt, nhưng chẳng để làm gì nữa cả. Loại sắt thứ cấp, nấu bằng nồi hông ấy không bán được nữa”. Từ đó, làng tôi làng tôi chuyển sang nghề nông và buôn chữ, ăn cháo, ăn khoai, chặt roi rèn con cháu học hành để sau này có cả mấy chục giáo sư, tiến sĩ.
Thanh sắt tây của bà Nguyễn trùm chợ Sắt đã về làng tôi năm xưa đấy. Cả tôi, cả ông bà cụ kỵ của tôi không ai biết mặt bà, nhưng chính bà đã buộc cả làng tôu phải đổi nghề, bới đất mà sống, mút cá gỗ mà đi thi.
Cũng không phải chỉ người làng tôi phải đổi nghề. Thời đó, ở đất Bắc này, nhiều người phải đổi nghề, sập tiệp vì đã dại dột cạnh tranh với bà Nguyễn trong nghề buôn bán sắt thép. Bà là nhà buôn tài giỏi và độc đoán, không cho phép ai qua mặt, là người đàn bà sắt thép nhất, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. .