Jump to content







Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#106

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 09/07/2014 - 04:23

KHI MIỀN NAM SUÝT TRỞ THÀNH MỘT TỈNH CỦA NƯỚC ĐỨC

Năm 1870, cuộc chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra với thất bại nghiêng về phía Pháp. Điều này làm trầm trọng thêm những khó khăn mà đế quốc Pháp gặp phải về mặt tài chính vào những năm cuối thập niên 1860. Trong cuộc chiến tranh trên, một vài sự kiện liên quan đến thuộc địa Nam kỳ đã không được các tài liệu nghiên cứu sau này đề cập đến. Theo J. Bouault, tác giả quyển La Cochinchine et la guerre de 1870-71 (Nam kỳ và cuộc chiến năm 1870-71) đăng trên Tạp chí lịch sử thuộc địa Pháp tháng 11.1929, tin tức về cuộc chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ vào tháng 7.1870 đã lan tới Sài Gòn vào ngày 5.8.1870 và nhiều thiệt hại của quân đội Pháp ghi nhận được vào ngày 25.9.1870. Tuy nhiên, đó chỉ là tin không chính thức trong nội bộ các viên chức Pháp. Mãi đến ngày 20.10, Thống đốc Nam kỳ Cornulier mới được thông báo chính thức. Bouault đã viết về sự kiện này như sau(trích):”Bị thu hút bởi cuộc chiến gian khổ tại Bắc kỳ chống lại các băng cướp người Hoa từ Vân Nam tràn xuống, triều đình Huế đã không tạo nên những cuộc khuấy động có tính thù nghịch trong những tỉnh của người Pháp. Bằng biện pháp phòng bị an toàn, vị Đô đốc-Thống đốc đã ban bố tình trạng giới nghiêm vào ngày 8.11 và tuyên bố trục xuất các cư dân Đức đang nắm giữ vị trí quan trọng trong ngành thương nghiệp địa phương…” (G. Taboulet dẫn trong La geste française en Indochine, trang 577)
Ở một đoạn khác, Bouault viết rằng vào cuối tháng 8.1870, một tàu chiến đã có mặt ở Brest, nơi đó, người ta chuẩn bị đưa xuống tàu những kiệt tác hội họa ở bảo tàng Louvre, những viên kim cương gắn trên vương miện, nhằm chuyển đến Sài Gòn, nơi được coi là một kho chứa an toàn, phòng trường hợp quân Phổ tấn công và cướp đoạt. Nhưng đặc biệt nhất là tiết lộ quan trọng sau đây của Boault về số phận thuộc địa Nam kỳ trong chiến tranh Pháp-Phổ (trích):”…Người ta cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy từ đầu cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, một nhật báo Anh về Viễn Đông đã nhiều lần ám chỉ sự kiện nhượng đứt xứ Nam kỳ thuộc Pháp cho nước Phổ trong một hòa ước (báo European Mail những ngày 12,19,26.8 và 30.9.1870, các ngày 8.10 và 4.11.1870, tin đã được tòa Lãnh sự Pháp ở Bangkok báo cho Thống Đốc Nam kỳ)…” Sau trận đánh ở Sedan, ngày 2.9.1870, hoàng đế Pháp Napoléon III trở thành tù binh của quân Phổ, việc điều hành chính quyền nằm trong tay Hoàng hậu Eugénie. Trong một tài liệu phổ biến vào năm 1903, Théophile Gautier con, nguyên Quận trưởng Pontoise, có kể lại chuyến đi đến Paris để hội kiến với Bá tước Bismarck, một người hùng trong chiến tranh Pháp-Phổ, theo lệnh của Hoàng hậu nhiếp chính Eugénie, để trao tận tay ông này một bức thư gửi cho hoàng đế nước Phổ. Bức thư đó nêu lên một số đề nghị như sau:
- Phá hủy các phòng tuyến ở Strasbourg, thành phố được công nhận tự do, quản trị độc lập.
- Nước Pháp trả cho Phổ một khoản chiến phí là hai tỉ quan Pháp.
- và cuối cùng, đề nghị giao cho Phổ thuộc địa Nam kỳ của Pháp, được mô tả là một vùng đất trù phú có thể đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của chính quốc, thậm chí còn dư dả nữa.
Gautier được cử đi tiếp xúc với bá tước Bismarck, trình lá thư của hoàng hậu nhiếp chính Eugénie. Sau khi chăm chú lắng nghe Gautier nêu lên đề nghị giao đất Nam kỳ cho Phổ khai thác và quản lý, bá tước Bismarck đã suy nghĩ trong mấy giây và trả lời với một cung cách nhún nhường: ” Ồ! Ồ! Nam kỳ ấy à! Đó là một miếng quá to đối với chúng tôi. Chúng tôi chưa đủ giàu để sắm cái món thuộc địa xa xỉ ấy…”
Câu chuyện dừng lại ở đó, Bismarck hẹn với Gautier gặp lại vào buổi chiều, vì ông ta vừa được hoàng đế Phổ cho người gọi đến hội kiến. Về sau Gautier được thông báo là phía Phổ không chấp nhận những đề nghị của Hoàng hậu Eugénie..
Thử tưởng tượng nếu người Đức mặn mà với thuộc địa Nam kỳ và đồng ý tiếp nhận để biến nó thành một tỉnh của Đức sau này, không biết rồi dòng chảy lịch sử sẽ hướng về đâu?

*****
Cách nay nhiều năm, tôi có viết về câu chuyện này trên một tạp chí, sau in thành sách, trong đó có đoạn như sau(trích): “Lẽ ra bộ máy quyền lực ở Huế phải nhận thức được thời cơ của một cuộc xoay chuyển tình thế, lãnh đạo hay chí ít cũng tích cực hỗ trợ những cuộc kháng chiến vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi, thì họ lại giữ một thái độ hoàn toàn thụ động … Do đó, sẽ không phải là điều quá đáng khi cho rằng sự kiện này tố cáo với bọn thực dân một thái độ bạc nhược của vua quan nhà Nguyễn, khuyến khích và giúp chúng vững tâm hơn khi tiếp tục triển khai kế hoạch thuộc địa hóa toàn bộ Việt Nam vào những thập niên 1870-1880…” (hết trích)
Bây giờ đọc lại đoạn trên, tôi cảm thấy ít nhiều xấu hổ về sự thô thiển của mình. Tôi đã lấy những điều kiện tiếp cận thông tin thời hiện đại qua báo chí, điện thoại, internet… làm tiêu chí để đánh giá về những gì đã diễn ra cách nay hơn 140 năm, khi mà người Việt Nam chưa có báo chí quốc tế để đọc, chưa có điện thoại để liên lạc với thế giới bên ngoài, một thông tin từ Pháp chuyển về VN phải sau hàng tháng trời, qua con đường hàng hải. Vì vậy, thông tin về cuộc chiến tranh Pháp-Phổ không thể được triều đình Huế nắm bắt kịp thời như cách tiếp cận thông tin của chúng ta ngày nay. Mặt khác những tin tức về tình hình kinh tế, tài chánh của Pháp như thế nào, còn phong phú hay đã cạn kiệt, cũng là điều vượt quá khả năng hiểu biết của vua quan nhà Nguyễn. Thế thì trách họ đã không nắm bắt thời cơ khi cuộc chiến tranh Pháp-Phổ nổ ra, liệu có bất công và quá đáng hay không? Chúng ta nói với nhau điều này dựa trên tinh thần khách quan và công bằng của lịch sử, chứ nếu muốn lên án triều Nguyễn với bất cứ lý do nào như nhiều người đã làm trước đây thì điều đó không khó khăn một chút nào.

Lê Nguyễn – 7.7.2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hoàng đế Pháp Napoléon III bị quân Phổ bắt làm tù binh năm 1870

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hoàng hậu nhiếp chính Eugénie

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lễ thành lập đế quốc Đức

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bá tước Otto von Bismarck (sau được phong vương công), Thủ tướng đầu tiên của đế quốc Đức

Thanked by 2 Members:

#107

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 11/07/2014 - 05:10

Nguyễn Cừ đã " Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" như thế nào?
Hoàng Tuấn Công/ Blog Tuấn Công thư phòng


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng tôi có trong tay cuốn “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Cừ khi đang viết dở loạt bài thứ nhất “Dĩ hư truyền hư-Những sai lầm mang tính hệ thống trong từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân” (cuối năm 2013). Lần đầu tiên thấy một cuốn sách có cái tên tự tin, hấp dẫn như vậy nên tôi xem ngay. Tuy nhiên, chỉ 15-20 phút lật giở đã thấy sách có quá nhiều “vấn đề”. Mà những “vấn đề” ấy lại khá giống với GS Nguyễn Lân!


Ví dụ “Chuyên gia tiếng Việt tại Liên xô, Giám đốc, Tổng biên tập NXB Văn học"-tác giả “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” không phân biệt được thế nào là thành ngữ, thế nào là tục ngữ; thế nào là ngữ danh từ, quán ngữ; giảng sai, hiểu sai thành ngữ, tục ngữ; chép sai văn bản, viết sai chính tả tràn lan,v.v... trong cuốn sách có độ dày gần 500 trang(1).
Xin được trao đổi cùng tác giả và độc giả:

Phần I

KHÔNG PHẢI TỤC NGỮ

Nguyễn Cừ làm sách "Giải thích tục ngữ Việt Nam" nhưng lại chưa hiểu tục ngữ là gì. Đó là chuyện khó tin nhưng có thật. Xin dẫn chứng:

Ngay phần “Lời giới thiệu”, tác giả "Giải thích tục ngữ Việt Nam" viết:

-“...nhìn hình thức bề ngoài thì tục ngữ chỉ là những tập hợp từ có cấu trúc ngôn ngữ bền vững, chặt chẽ, được dùng như lời ăn tiếng nói giao tiếp hàng ngày, rất ngắn gọn, xúc tích, (HTC nhấn mạnh) có vần điệu và nhịp điệu...” (đoạn 1).

- “Tục ngữ là biểu hiện cao nhất của lời ăn tiếng nói của dân tộc Việt Nam, biểu hiện sự sử dụng ngôn từ, vốn từ vựng phong phú của tiếng Việt. Thông qua tục ngữ, tiếng Việt đã phát triển ở một trình độ cao, xứng đáng là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam” (đoạn 2).

Ở đây (đoạn 1) Nguyễn Cừ đã nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ. Bởi “những tập hợp từ có cấu trúc ngôn ngữ bền vững, chặt chẽ...” là đặc điểm hình thức của thành ngữ chứ không phải tục ngữ. Về (đoạn 2) khi Nguyễn Cừ nói đến “biểu hiện sự sử dụng ngôn từ, vốn từ vựng phong phú của tiếng Việt”, rồi “tiếng Việt đã phát triển ở một trình độ cao, xứng đáng là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam” chính là nói đến “hiện tượng ngôn ngữ” của thành ngữ mà các nhà nghiên cứu đã thống nhất, chứ không phải là “hiện tượng ý thức xã hội” của tục ngữ. Xin được nói rõ hơn:

Về hình thức: tục ngữ là một câu, dù ngắn đến đâu cũng diễn tả một ý trọn vẹn; thành ngữ chưa phải là một câu mà chỉ là một phần câu, một tập hợp từ bền vững. Về nội dung: tục ngữ là kinh nghiệm, tri thức được diễn đạt theo lối khẳng định, tổng kết quy luật, chân lý của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội; còn thành ngữ mới chỉ dừng ở mức độ so sánh, ví von, nhận xét, diễn đạt một cách hình ảnh về sự vật, hiện tượng nào đó mà thôi(2).

Bởi vậy, trong tục ngữ có thành ngữ, nhưng trong thành ngữ không có tục ngữ. Nói cách khác, thành ngữ là một tập hợp từ gợi tả, giàu hình ảnh (thường dùng phép so sánh) mà (đôi khi) tục ngữ, ca dao lấy làm chất liệu để cấu thành chứ không phải chính là tục ngữ. Nếu thành ngữ giống như cái túi áo trên ngực áo, thì tục ngữ là cả cái áo. Cái túi áo chỉ làm phong phú thêm chức năng và góp phần tô điểm cho cái áo chứ không phải là chính cái áo. Ví dụ, trong câu tục ngữ: “Gái phải hơi trai như thài lài gặp c*t chó”, thì “như thài lài gặp c*t chó” là thành ngữ nằm trong tục ngữ. Hoặc “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, “như kiến thấy mỡ” là thành ngữ; “Rẻ như bèo nhiều heo cũng hết”, “rẻ như bèo” là thành ngữ; “Đẹp như tiên, lo phiền cũng xấu”, “đẹp như tiên” là thành ngữ, được tục ngữ dùng làm văn liệu, trở thành một phần trong câu tục ngữ. Hoặc câu ca dao: “Chẳng tham ruộng cả ảo liền, Tham vì cái bút, cái nghiên ông đồ” thì “Ruộng cả, ao liền” là thành ngữ được ca dao lấy làm văn liệu.

Về cách dùng: khi vận dụng tục ngữ vào lời ăn tiếng nói, người ta muốn tăng thêm sức thuyết phục cho lời nói của mình, qua đó chứng minh, khẳng định một kinh nghiệm, một quy luật nào đó đã được tổng kết, đúc rút một cách chắc chắn. Ví dụ, khi nói: “Quá trưa sang chiều trời sẽ tạnh cho mà xem” sẽ không thuyết phục bằng cách nói vận dụng thêm câu tục ngữ: “Quá trưa sang chiều trời sẽ tạnh, vì Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi mà !”. Trong đó, Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi là một đúc kết, một kinh nghiệm, sự khẳng định dựa trên quy luật thời tiết của nhân dân. Còn khi vận dụng thành ngữ, người ta chỉ có thể làm cho lời nói của mình hay hơn, giàu hình ảnh, hấp dẫn hơn mà thôi. Ví dụ, thay vì nói: “Buổi sáng trời mưa tầm tã”, người ta nói: “Buổi sáng trời mưa như trút nước”. Câu nói thứ hai hay hơn, giàu hình ảnh hơn vì đã vận dụng thành ngữ “Mưa như trút nước”. Tuy nhiên, “Mưa như trút nước” hoàn toàn không phải là tri thức, là kinh nghiệm hay quy luật của tự nhiên. Hoặc thay vì nói: “Người anh hôi lắm”, ta nói: “Người anh hôi như cú ấy”; Thay vì nói: “Anh đi chậm quá” ta nói: “Anh đi chậm như rùa ấy”. Thì “Hôi như cú” (hoặc Hôi như tổ cú), “Chậm như rùa” là những thành ngữ mà khi ta vận dụng sẽ khiến lời nói, câu viết giàu hình ảnh hơn cách nói thông thường. Bản thân “hôi như cú”, “chậm như rùa” không phải là một đúc kết, kinh nghiệm (đặc trưng của nội dung tục ngữ), mà chỉ là nhận xét, so sánh, phán đoán (đặc trưng nội dung thành ngữ). Bởi vì rùa không phải là chậm nhất (thế nên còn nói Chậm như sên), cú không phải là hôi nhất (mà chắc gì cú đã hôi ? Chẳng qua cú ăn thịt những con vật bẩn thỉu như chuột bọ, côn trùng, hình thức lại xấu xí nên người ta cảm tưởng như vậy. Người viết bài này từng tiếp xúc với cú muỗi, cú vọ, thấy chúng không hề hôi tí nào. Ngược lại chúng sạch sẽ như rất nhiều loài chim khác). Hay câu thành ngữ “Xấu như ma”, có ai trông thấy ma bao giờ đâu mà biết nó xấu hay đẹp ? Rõ ràng, sự bóng bẩy trong diễn đạt, tính phán đoán, tính tương đối trong nội dung của thành ngữ rất khác so với sự chuẩn mực, khoa học, tri thức qua lối diễn đạt mang tính khẳng định của tục ngữ.

Do nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ nên trong "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" chủ yếu Nguyễn Cừ tập hợp các đơn vị thành ngữ là chính. Chúng tôi không thể nhặt hết số thành ngữ này mà chỉ nêu ra làm ví dụ:

Cả nhà, cả ổ; Bạc tình, bạc nghĩa; Công chúa phải gai mồng tơi; Tai to, mặt lớn; Tan xương, nát thịt; Sưu cao, thuế nặng; Tác oai, tác quái; Quyền sinh, quyền sát; Quan cao lộc hậu; Quân sư quạt mo; Đứng núi này trông núi nọ; Kén cá, chọn canh; Liễu chán hoa chê; Kiễu ép, nài hoa. Nam thanh nữ tú; Phận bạc như vôi; Tài tử giai nhân; Thắt đáy lưng ong; Trâm gãy bình rơi; Bán sấp, bán ngửa; Hòa cả làng; Hoa trôi, bèo dạt; Rồng đến nhà tôm; Rừng thiêng, nước độc; Ruộng cả ao liền; Trêu hoa, ghẹo nguyệt; Trên bến, dưới thuyền; Trên đe, dưới búa; Trơn lông, đỏ da; Ăn bớt, ăn xén; Ăn chẳng bõ dính răng; Ăn chẳng bõ nói; Ăn đậu ở nhở; Ăn hương ăn hoa; Anh hùng lỡ vận; Anh hùng mạt lộ; Bé xé ra to; Chán đến mang tai; Chán ngắt, chán ngơ; Châu chấu đá voi; Chết cay, chết đắng; Chưa ăn đã lo đói; Chung lưng, đấu cật; Cổ cày vai bừa; Có nếp, có tẻ; Của chìm của nổi; Đa sầu đa cảm...

Thậm chí, dạng thành ngữ rất dễ nhận biết, với cấu trúc có liên từ “như” vẫn được Nguyễn Cừ “tuyển” vào sách “giải thích tục ngữ” rất nhiều. Ví dụ:

Da như trứng gà bóc; Da trắng như ngà voi; Mê như điếu đổ; Tóc mây, m*y nguyệt; Trơ như đá, vững như đồng; Xấu như ma; Xấu như dạ xoa; Xấu như cú; Xấu như ma lem; Xấu như quỷ; Xấu như ma mút. Câm như thóc trầm ba mùa. Chậm như rùa; Chậm như sên; Yếu như sên. Dại như vích; Dày như mo cau; Gắt như mắm tôm; Giấu như mèo giất c*t; Chắc như cua gạch; Chán như cơm nếp nát; Dai như đỉa đói; Nợ như chúa Chổm; Oai oái như phủ Khoái xin cơm; Chắc như đinh đóng cột; Chạy như đèn cù; Chạy như cờ lông công; Chạy như chạy loạn; Chết đuối vớ được cọc (nói gọn từ: Như chết đuối vớ được cọc-HTC) Chết mê, chết mệt; Chở củi về rừng (nói tắt của: Như chở củi về rừng-HTC) Dễ như trở bàn tay,v.v...

Như vậy, trên đây chúng ta thấy Nguyễn Cừ đã sai lầm khi đem khái niệm thành ngữ để định nghĩa cho tục ngữ, và đem tiêu chí thành ngữ để lựa chọn “tục ngữ”. Làm thế khác nào muốn đi chọn mua một đàn cừu nhưng lại căn cứ vào mô tả về con dê để mua ? Cách làm trái khoáy này của Nguyễn Cừ khiến sách giới hạn “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” nhưng thực tế nội dung lại có cả thành ngữ lẫn tục ngữ. Thậm chí số lượng thành ngữ nhiều hơn tục ngữ. (Với GS Nguyễn Lân, chúng ta không biết Nhà biên soạn từ điển có phân biệt được thành ngữ với tục ngữ hay không. Vì sách “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” sưu tầm cả hai loại này).

Tuy nhiên, “vấn đề” không chỉ dừng ở đó. Xác định sách chỉ “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” và trong lời giới thiệu, Nguyễn Cừ cũng đưa ra định nghĩa để làm tiêu chí tuyển chọn “tục ngữ”. Tuy nhiên, phần cuối lời giới thiệu, tác giả lại bất ngờ tuyên bố: “Một điều dễ nhận thấy trong cuốn sách này là có nhiều câu thành ngữ, thậm chí cả ca dao cũng được đưa vào, mong bạn đọc thông cảm và hiểu cho rằng, tục ngữ và thành ngữ có nhiều nét giống nhau ở cả hình thức cấu tạo và nội dung. Nếu tục ngữ là những câu ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống về tự nhiên, xã hội thì thành ngữ cũng là tập hợp từ cố định dùng quen hàng ngày có vần, có ngắt nhịp cũng mang nội dung xã hội, đạo lý, đạo đức.” (HTC nhấn mạnh)

Phải chăng, Nguyễn Cừ không chắc chắc những đơn vị tục ngữ được tuyển vào "Giải thích tục ngữ Việt Nam" là thuần tục ngữ nên đã "gài" vào những câu như vậy ? Qua đó, xóa nhòa đi ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ, giữa tục ngữ và ca dao ?

Như vậy, đọc những gì Nguyễn Cừ viết, chúng ta thấy rõ: tác giả lẫn lộn lung tung khái niệm thành ngữ, tục ngữ, cuối cùng đánh đồng tục ngữ với thành ngữ là một. (Đó là cách hiểu thành ngữ, tục ngữ theo lối sơ khai của một vài người các đây ngót trăm năm !) (3)

Với độc giả, việc lẫn lộn hoặc không phân biệt được thành ngữ với tục ngữ là chuyện thường. Thế nhưng, với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hoặc người đã có thể vững tin cầm bút viết nên sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” lại là điều đáng ngạc nhiên.

Xem “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”, chúng ta từ ngạc nhiên chuyển sang kinh ngạc. Bởi Nguyễn Cừ đã “tuyển” rất nhiều những đơn vị không phải thành ngữ, cũng chẳng phải tục ngữ. Những ví dụ sau đây chỉ là cụm từ đơn thuần, ngữ danh từ, câu đố hoặc từ láy:

Uốn a uốn éo; Õng à õng ẹo; Đú đa đú đởn; Lép ba, lép bép; Lệt bà lệt bệt; Thưa thưa bẩm bẩm; Bỏ vật, bỏ vạ; Chán ngấm, chán ngẩm;Chán chê, mê mỏi; Da trắng, tóc dài; La lối om sòm; Làm tình làm tội; Anh em đường ai nấy đi; Cao tằng tổ khảo; Thờ chồng, nuôi con; Con dì, con già; La làng la xóm; Khai quốc công thần, Sách gối, đầu giường; Làm duyên, làm dáng; Nạp thái vu quy; Làm nũng, làm nịu; Lòng xuân phơi phới; Chó huyền đề; Cổ cao ba ngấn; Tam tòng, tứ đức; Má lúm đồng tiền; Thắt đáy lưng ong; Tuần trăng mật; Chín tháng mười ngày; Trong quan; ngoài quách; Nơi chôn nhau, cắt rốn; Nói chuyện đường dài; Núi Tản, sông Đà; Nói chuyện tầm phào; Mưa bóng mây; Con đóng khố, bố cởi truồng (đây là câu đố về cây măng, cây tre-HTC) Long, ly, quy, phượng; Rét nàng Bân; Tăng gia sản xuất; Ái nam, ái nữ; Cạo đầu đi tu; Ăn canh rau má; Ăn cháo lá đa; Ăn cho sướng miệng; Ăn được, ngủ được; Bưng cơm, rót nước; Bớt mồm, bớt miệng; Chán ngắt, chán ngơ; Ngượng đỏ mặt; Ngượng chín mặt, Cấu xé lẫn nhau; Chạy sấp, chạy ngửa; Có chừng, có mực; Cạy răng không nói; ...

Sai lầm trên đây của Nguyễn Cừ chính là sai lầm mà GS Nguyễn Lân từng mắc trong “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam...(Chúng tôi từng nêu trong loạt bài

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân) Nguyên nhân của sai lầm này không gì khác ngoài việc tác giả không nhận diện được thành ngữ, tục ngữ, không biết đích xác thành ngữ tục ngữ là gì. Với Nguyễn Cừ, điều này càng được khẳng định bởi có những câu chỉ là cách nói vui thời hiện đại, ghán ghép kiểu đầu Ngô mình Sở, hoặc cùng lắm là ca dao cười: Làm trai cho đáng nên trai, Pari cũng tới, Ha-Oai cũng từng; Tình yêu chớp bể mưa nguồn, Em châu chấu đá anh chuồn chuồn bay; Yểu điệu thục nữ, quân tử mê ly...cũng được Nguyễn Cừ “tuyển” vào làm “tục ngữ Việt Nam” !

"Tục ngữ Việt Nam" là như vậy sao ?

Mặt khác, chuyện phân loại “tục ngữ” của Nguyễn Cừ cũng thuộc diện “vô tiền khoáng hậu”. Đó là chia thành ngữ, tục ngữ thành loại có 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ... rồi cứ thế phân tách cấu trúc bằng dấu phẩy một cách máy móc, tạo ra những hình thức thành ngữ, tục ngữ “chẳng giống ai”. Bởi vậy, đọc những câu "thành ngữ, tục ngữ" kiểu này của Nguyễn Cừ, người ta có cảm tưởng như mình đang hăm hở bước tới, bỗng đâu có kẻ chơi xỏ, bất ngờ ngáng chân lại. Ví dụ:

Đường ở, cửa miệng; Con gái, là cái bòn; Lụt thì lút, cả làng; Có bột mới, gột nên hồ; Dốt đặc, cán mai; Của đi, thay người; Của bền, tại người. Dạy bà lang, bốc thuốc; Mắc bẫy, cò ke; Mạnh ai, nấy được; Nuôi ong, tay áo; Trông gà, hóa cuốc; Trứng khôn, hơn vịt; Vua thua, thằng liều; Cá nằm, trên thớt; Châu chấu, đá xe; Coi trời,bằng vung; Đò nát, đụng nhau; Chó ngáp; phải ruồi; Chở củi; về rừng; Gửi trứng, cho ác; Giơ đầu, chịu báng; Nối dáo, cho giặc; Sách gối, đầu giường; Thay ngựa, giữa dòng; Con gà, tức nhau tiếng gáy; Cú kêu, ra ma; Tầm gửi, lấn cành; Bán hàng, chiều khách; Đàn gảy, tai trâu; Nước chảy, chỗ trũng; Cầm dao, đằng lưỡi; Cầm gậy, chọc trời; Câu chuyện, làm quà; Cố đấm, ăn xôi; Của đi, thay người, Áo gấm, đi đêm; Áo gấm, về làng; Ngựa quen, đường cũ; Sắc nanh chuột, cắn được cổ mèo v.v...

Những câu (đơn vị lời nói) chúng tôi vừa liệt kê trên đây cũng phần lớn là thành ngữ chứ không phải tục ngữ (Câu có gạch chân là tục ngữ). Thực tế cho thấy, Nguyễn Cừ không phân biệt được loại thành ngữ, tục ngữ 4 chữ, chia làm hai vế, có quan hệ đối sánh kiểu: Trên bến, dưới thuyền; Lên voi, xuống chó; Vịt già, gà tơ... hoàn toàn khác với loại 4 chữ chỉ là cụm từ diễn xuôi theo trật tự của câu kể đơn thuần: Cầm dao đằng lưỡi; Câu chuyện làm quà ? Thế nên các câu thành ngữ này qua tay Nguyễn Cừ mới biến thành: Cầm dao, đằng lưỡi; Câu chuyện, làm quà...Hoặc đối với câu 5 chữ Lụt thì lút cả làng” lại được viết thành: “Lụt thì lút, cả làng” !

Vậy, những sai lầm của Nguyễn Cừ mà chúng tôi kể trên nói lên điều gì ? Có ảnh hưởng gì đến cách hiểu tục ngữ, thành ngữ hay không ? Thưa rằng có. Từ chỗ nhận lầm tục ngữ ra thành ngữ, không phân biệt được thành ngữ, tục ngữ với ngữ danh từ; từ láy; quán ngữ; cụm từ đơn thuần; không xác định được cấu trúc câu thành ngữ, tục ngữ, Nguyễn Cừ đã đi đến thất bại trong “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”. Đó cũng chính là nội dung cơ bản, đáng kể nhất chúng tôi sẽ nói đến trong phần II “Nguyễn Cừ đã “giải thích tục ngữ Việt Nam” như thế nào ?”(3)
HTC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



.........................................
Chú thích:
(1) Sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” Nguyễn Cừ-NXB Văn học-2012 . Bìa trong cuốn sách, tác giả cho biết thêm: “Nguyễn Cừ (Nguyễn Văn Cừ) Bộ đội, Khoa Văn-Đại học Tồng hợp khóa 17, chuyên gia tiếng Việt tại Liên Xô, đã công tác tại NXB Khoa học xã hội, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc, Tổng biên tập NXB Văn học”. Bìa 3, Nguyễn Cừ cũng cho biết, ông là tác giả và đồng tác giả của 11 cuốn sách khảo cứu, sưu tầm, biên soạn, tuyển chọn khác. Như “Tục ngữ Việt Nam” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học-2008) “Tuyển tập tục ngữ-ca dao Việt Nam” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học) “Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam” (Nguyễn Cừ-in chung NXB Giáo dục), “Kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học) “Truyện cười Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học) v.v...

(2) Đã từ lâu, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã thống nhất về cơ bản trong việc phân biệt thành ngữ, tục ngữ. Về hình thức, tục ngữ là:

- “một câu tự nó đã diễn tả trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm...”, còn “thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn tả được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh; còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng đã là một câu hoàn chỉnh...” (theo Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam-Vũ Ngọc Phan-1977).

-“Có thể nói, nội dung của thành ngữ manh tính hiện tượng, còn nội dung của tục ngữ nói chung là mang tính chất quy luật. Từ sự khác nhau cơ bản về nội dung dẫn đến sự khác nhau về hình thức ngữ pháp, về năng lực hoạt động trong chuỗi lời nói...Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu” (Nguyễn Văn Mệnh-Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1972-dẫn theo Tục ngữ Việt Nam-Chu Xuân Diên-Lương Văn Đang-Phương Tri-NXB Khoa học xã hội-1975)

- Thành ngữ là: tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích một cách đơn giản bằng nghĩa của từ tạo nên” (theo Từ điển Tiếng Việt-Hoàng Phê).

(2) Tiêu biểu cho quan niệm này là Nguyễn Văn Tố, trong bài “Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây”, đã đồng nghĩa về mặt thuật ngữ khi nói về thành ngữ, tục ngữ. Ông viết: “Tục ngữ là câu thành ngữ nói đã quen, trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy, ý tứ cao xa, câu nào từ đời xưa truyền lại gọi là ngạn ngữ, cũng có khi gọi là tục ngạn. Nhưng dù là ngạn ngữ, tục ngữ hay tục ngạn, thì nghĩa cũng gần giống nhau...” (Dẫn theo Tục ngữ Việt Nam- Nhóm Chu Xuân Diên).

-Sách "Từ điển tục ngữ Việt" của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương làm khá tốt việc nhận diện tục ngữ. Theo Nguyễn Đức Dương, tác giả đã vận dụng phương pháp nhận diện tục ngữ của Cao Xuân Hạo. Tuy nhiên việc nhận diện đúng tục ngữ chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để đảm bảo việc giải thích sẽ chính xác. Bạn đọc có thể tham khảo bài phê bình cuốn "Từ điển tục ngữ Việt" tại đường link: A

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(3) Sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” do anh Lê Thanh Thảo-Công ty thuốc BVTV Trung ương I tại Thanh Hóa đem đến giới thiệu và cho chúng tôi mượn đọc trong nửa năm qua. Nhân đây xin được cảm ơn Anh và mong Anh thông cảm việc mượn sách lâu đến vậy.

Sửa bởi pth77: 11/07/2014 - 05:11


#108

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 12/07/2014 - 04:23

" Đặc khu kinh tế"-Ý kiến của một người có chút thực tế
Hồ Quốc Phi /Nguyên Tham tán Thương mại VN tại TQ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ngày 20-3, tại thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) đã diễn ra Hội thảo Khoa học quốc tế về phát triển đặc khu kinh tế. Sau Hội thảo có một loạt các bài báo, các bài bài phát biểu của các yếu nhân, các cuộc tọa đàm trên TV của VTV, TTXVN.. Của các Giáo sư, Nhà Kinh tế... Bàn luận sôi nổi (triển vọng) về Đặc khu Kinh tế (ĐKKT) Việt Nam sau này.
Là một người gắn liền với chữ vuông (tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh, chủ yếu kinh doanh xuất nhập khẩu với Trung Quốc, Tham tán Thương mai tại Bắc Kinh, quan chức Vụ Mậu dịch biên giới...) Mặc dù nay đã nghỉ hưu, nhưng xin có đôi điều để góp ý thêm cho những nhà hoạch định chính sách sau này cho ĐKKT Việt Nam.

Do quá nửa đời người gắn liền với chữ vuông, nên Tôi chỉ dám nói về "Kinh nghiệm ĐKKT Thâm Quyến và bài học cho Việt Nam. Bản thân tôi đã tháp tùng nhiều đoàn của Nhà nước, bộ ngành, doanh nghiệp, bè bạn... Đến thăm Thâm Quyến, bởi câu: "Muốn tìm hiểu TQ 5.000 năm mời đến Thiểm Tây, TQ 500 mời đến Bắc Kinh, TQ 50 năm mời đến Thâm Quyến, và tương lai TQ 50 năm mời đến Phố Đông!". Đồng thời Tôi cũng đã dẫn nhiều đoàn TQ thăm Việt Nam, thăm Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo... Nên có rất nhiều thể hội muốn chia sẻ với các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học, các nhà lý luận và các học giả.

I. HỌC THÂM QUYẾN

Các bản tham luận tại Hội thảo, các chính trị gia, các học giả, khoa học gia... Khi đánh giá về bài học thành công của ĐKKT Thâm Quyến đều đã đề cập, tất cả đều đúng! Nhưng (theo tôi) chưa đủ, chưa nói được cái cốt lõi của sự thành công!

Vậy cái cốt lõi đó ở đâu?
Vào những năm thập kỷ 80, chắc những ai đã từng đặt chân đến Thâm Quyến, sau khi vượt qua "Khu Kiểm soát" như kiểu Cửa khẩu Quốc tế, khi chuẩn bị vào Thành phố Thâm Quyến đều nhìn thấy bên đường một bức tường khổng lồ được xây trên nền cỏ xanh và hoa tươi thắm. Trên bức tường có hình Ông Đặng Tiểu Bình với dòng chữ: "发展才是硬道理" nghĩa là "PHÁT TRIỂN MỚI LÀ CHÂN LÝ CỨNG".

Như mọi người đều biết, sau khi đánh đổ "Bè lũ bốn tên: Vương, Trương, Giang, Diều" (tức Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên); Đặng Tiều Bình được phục chức lần 3 và trở lại cầm quyền. Ông đã có những quyết sách trong phát triển kinh tế, nổi tiếng với chính sách "mèo trắng, mèo đen" hay " Một nước hai chế độ". Các quyết sách này dây lên trong đảng, quân đội, chính phủ, ... Mối nghi ngại sâu sắc: nào là chính sách chệnh đường lối! Nào là đi theo đường lối TBCN! Nào là nguy cơ mất nước.v.v.. Trước tình trạng đó, Đặng Tiểu Bình có thông điệp gửi toàn đảng, toàn quân, toàn dân: "PHÁT TRIỂN MỚI LÀ CHÂN LÝ CỨNG!". "Chân lý" đã thuộc về đúng đắn rồi, nhưng Ngài thêm "cứng" nữa, ý nói là chấm dứt bàn cãi, tranh luận mà hãy xem kết quả. Để thêm độ quyết tâm, "PHÁT TRIỂN MỚI LÀ CHÂN LÝ CỨNG!" đã được đưa vào Điều lệ của Đảng cộng sản TQ, trở thành một tiêu chí xuyên suốt cho mọi tiêu chuẩn. Thí dụ: trong công tác đề bạt cán bộ các cấp, đến năm thứ 2 mà đơn vị không phát triển đi lên, thì dù anh có thuộc làu Nghị quyết đảng cũng mời anh xuống để người khác làm!

Chúng ta hãy nhớ lại và đứng trên sự hiểu biết của cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 mới thấy được sự "đột phá". Lúc đó, cách mạng thế giới do giai cấp vô sản lãnh đạo vẫn đang sung mãn; cuộc chiến "ai thắng ai?" cơ bản đã rõ và trong nội bộ TQ, sự lãnh đạo của đảng cộng sản là toàn diện và xuyên suốt. Đấu tranh giai cấp luôn là khẩu hiệu "thép" của đảng, những ai mơ hồ sẽ ngay lập tức bị quy lập trường, tư tưởng thoái hóa; bị sa thải, thậm chí bị cầm tù.

Trong bối cảnh như vậy, người ta dám xây dựng một mô hình mới, nói toạc ra là quay lưng với lý luận Mác-Lê; áp dụng đường lối phát triển TBCN... Mà sau này người ta nói rằng: "kinh tế thị trường mang màu sắc TQ".v.v..là một động thái cực kỳ dũng cảm!

Người dám đương đầu với tất cả để đưa ra học thuyết nêu trên, sau này đã thành công và được thế giới người Hoa tôn vinh là "Nhà kiến trúc sư kinh tế vĩ đại; Tổng công trình sư kinh tế..." chính là Đặng Tiểu Bình.

Với tầm nhìn hạn hẹp của mình, Tôi đánh giá: Nếu Mao Trạch Đông là Lãnh tụ giải phóng dân tộc, thì Đặng Tiểu Bình là Lãnh tụ kinh tế. Tại Việt Nam, chúng ta có H-C-M là Lãnh tụ giải phóng dân tộc; sau năm 1975, (Giá mà) nếu ai đó dám áp dụng chế độ "một nước hai chế độ" thì tôi đảm báo chắc chắn rằng, Việt Nam ta luôn ngồi chiếu trên so với Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Malaisia...và (ai đó) chắc đã trở thành Lãnh tụ kinh tế của VN! Tại sao Tôi nói vậy? Đơn giản tôi có nhiều bạn bè là quan chức, doanh nhân tại Băng kok, Singapore, Kuala Lumper, Đài Bắc, Manila,...họ thường tâm sự với tôi rằng: trước năm 1975, mặc dù Việt Nam đang trong chiến tranh, nhưng họ ngưỡng mộ và ao ước thủ đô họ bằng Sài Gòn - Hòn ngọc viễn đông!

Quay lại bài học Thâm Quyến, với (tạm gọi) là cơ chế "PHÁT TRIỂN MỚI LÀ CHÂN LÝ CỨNG!" giống như một "THƯỢNG PHƯƠNG BẢO KIẾM"; đã tạo ra một Thâm Quyến "gần như một quốc gia độc lập", từ bộ máy hành chính đến các chính sách về thuế, xuất nhập cảnh, nhà đất....khác hẳn chính quyền tỉnh Quảng Đông và Trung ương Bắc Kinh. Tôi xin đưa ra một dẫn chứng: Trong khi tôi dẫn một đoàn quan chức Việt Nam đến "Khu Kiểm soát" như kiểu Cửa khẩu Quốc tế đã nói trên, cả đoàn trình hộ chiếu, cán bộ Sở Ngoại vụ Quảng Đông trình công lệnh là qua cửa khẩu nhanh chóng. Nhưng các công dân TQ muốn vào Thâm Quyến phải xin phép như kiểu xin "VISA" vậy! Tôi nhớ một lần khi chuẩn bị qua "Cửa khẩu", tôi thấy một đoàn nguyên là cựu chiến binh TQ muốn vào thăm Thâm Quyến, do chưa xin phép, không được vào nên họ to tiếng với cán bộ "Cửa khẩu". Tôi nghe rất rõ người cầm đầu nói: Chúng tôi là cựu chiến binh đã hy sinh để giải phóng đất nước, tại sao không cho tôi vào nước tôi mà lại cho bọn tư bản tự do đi lại?...Tôi bị Anh cán bộ Ngoại vụ kéo đi vào, chắc Anh sợ tôi nghe những căn vặn của cựu chiến binh mà không ai giải thích được.

Cũng trong thời gian này, tôi cũng tháp tùng một vài đoàn cán bộ trung ương, địa phương và doanh nghiệp TQ thăm Việt Nam. Tôi nhớ nhất là khi dẫn đoàn quan chức Thâm Quyến thăm Đặc khu Bà Rịa Vũng Tàu-Côn Đảo, họ rất ngạc nhiên là Đặc khu mà như không! Chắng ai kiểm soát cả, ra vào tự do! Các đồng chí bên Ngoại vụ Vũng Tàu cho biết, so với các tỉnh trong cả nước, Vũng Tàu không được hưởng bất cư chính sách ưu đãi nào!

Câu chuyện động trời tại Thâm Quyến trở thành đề tài "nóng bỏng" để các báo giấy, truyền hình, đài phát thanh từ trung ương, địa phương đến ngành quan tâm.(Thời đó chưa có báo mạng) Nhưng chỉ sau một thời gian cực ngắn, mọi bình luận đều im hơi lặng tiếng! Tôi được một bạn người TQ cho biết, đã có chỉ thị nội bộ, cấm bình luận về mô hình Thâm Quyến trên mọi phương tiện truyền thông đại chúng. Hãy để Thâm Quyến tự vận động, thành công hay thất bại xem hồi sau sẽ rõ; lúc đó tha hồ bình luận mổ xẻ.

Cái cốt lõi của cơ chế "THƯỢNG PHƯƠNG BẢO KIẾM" lúc đó được trợ giúp đắc lực bởi hệ thống luật pháp lỏng lẻo, không đầy đủ và rất "nhân trị" trên cơ sở lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản. Thí dụ: Các Luật về thuế, Luật Hải quan, Luật xuất nhập cảnh, Luật đất đai... và đặc biệt là chế độ công hữu được quy định trong Hiến pháp; đều vô hiệu khi qua cổng "Cửa khẩu" Thâm Quyến. Tất nhiên sau đó TQ đã phải giải quyết một núi công việc, đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cái cách hoàn thiện hệ thống pháp luật của họ cũng "mang màu sắc TQ", đó là cái mà Đặng Tiểu Bình nói là "Dò đá qua sông"

Sự thành công của mô hình Đặc khu kinh tế Thâm Quyến có thể gói gọn mấy câu sau: Biến một làng chài xơ xác sau các biến động cách mạng đấu tranh giai cấp, trở thành một thành phố hiện đại, văn minh bậc nhất tại Châu Á. Về thành tựu kinh tế, cái làng chài đó ngày nay đã sản xuất ra một lượng của cải, vật chất hơn cả Việt Nam! Đế có số liệu so sánh, tôi xin lấy số liệu thống kê của năm 2012 để chứng minh:

Diện tích
(km2)
Dân số
(triệu người)
GDP
(Tỷ USD)
Thu nhập
($/người)

Việt Nam
332.000
88
136
1.540

Thâm Quyến
2.000
15
193
20.000


II. THỬ TÌM BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Việt Nam và Trung Quốc thực hiện đổi mới cải cách kinh tế trên một bình diện cực kỳ giống nhau, nhưng kết quả khác nhau.
Tại sao nói giống nhau? Chế độ chính trị giống nhau, chế độ sở hữu giống nhau, nền kinh tế tập trung bao cấp(tem phiếu), đất đai, tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân...và tất cả đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyết đối của đảng cộng sản.

Kết quả khác nhau? Trong thời gian khá dài công tác tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, là Tham tán Thương mại kiêm Trường phòng Kinh tế -Thương mại; nên thường là đầu mối để giúp các đoàn cán bộ đảng, nhà nước, bộ ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế...sang TQ giao lưu học tập, trao đổi các kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá trình đổi mới của 2 bên. Bình quân hàng năm, ĐSQ đón khoảng 170 đoàn như vậy. Nội dung trao đổi rất nhiều, nhưng tôi xin dẫn chứng một đề tài mà cho đến nay, VN ta vẫn làm chưa tốt, đó là vấn đề "Giải phóng mặt bằng"

Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì, không thể học TQ một cách máy móc được mà phải học theo cách của VN.

1) Bài học số 1: Thật sự Đổi mới tư duy! Cốt lõi của thành công!

Xã hội ta đã trải qua hơn 30 năm cải cách mở cửa, đã hình thành một tệ nạn "nói dối" kinh khủng: dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong trang sách học trò từ vỡ lòng đến các cấp, dối từ trong các báo cáo chuyên ngành, báo cáo tổng kết lơn nhỏ "làm láo báo cáo hay" bệnh thành tích..v.v. Ai cũng nói ngon xớt là ta đã "đổi mới tư duy", nhưng thực chất là chẳng đổi gì cả, chỉ bị xu thế toàn cầu hóa xô đi mà thôi.

Hãy làm theo lời Mác: "Vật chất quyết định ý thức". Các lý thuyết của Mác cách đây hơn 200 năm trong hoàn cảnh xã hội cuối phong kiến, đến nay đã lạc hậu rồi, không còn thích hợp nữa. Cách đây hơn 30 năm, TQ đã dám đi ngược lại, thì tại sao ngày nay VN ta lại không? Đừng sợ chệch đường, lệch hướng; Đừng sợ Dân xa rời Đảng; hãy đi theo hướng mà cả xã hội nhân loại đang đi! Hãy thực sự thay đổi tư duy!

Vậy ai phải thay đổi tư duy? Và thay đổi tư duy thế nào?

Những cán bộ cấp cao nhất của bộ máy đảng, nhà nước là phải gương mẫu thay đổi đầu tiên. Hãy đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân mình, nhóm mình, đảng mình. Bộ Chính trị, Trung ương Đảng cần ra một Nghị quyết rõ ràng và cụ thể về vấn đề này. Nghị quyết không được nói chung chung, hô khẩu hiệu và được phổ biến công khai trong toàn đảng, toàn dân biết để thực hiện. Tránh tình trạng một nhóm như cưu chiến binh TQ phản đối với những lý lẽ cực kỳ đúng với Chủ nghĩa Mác. Đồng thời phải có một cơ chế cho dân được giám sát và kiểm tra. Phải hiểu "dân" ở đây là một tổ chức hay cá nhân không liên quan gì đến tổ chức đảng. Nếu đảng cử ra các tổ chức giám sát này thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Cũng giống như các tổ chức chống tham nhũng ngày nay do đảng cử ra vậy; tham nhũng, lãng phí ngay trong tổ chức đó, thì hiệu quả rất kém mà tệ nạn tham nhũng ngày càng phình ra. Dễ hiểu: đảng cũng như một con người, không ai tự móc họng, móc ruột để mà chết cả!

Có được như vậy, thì không cần chào mời nhiều, các "vòi bạch tuộc của các tập đoàn đa quốc gia" ngửi thấy mùi kim tiền sẽ tự động nhào tới, bởi vì họ chỉ thực sự bỏ tiền ra đầu tư kinh doanh khi nhìn thấy ta thực sự thay đổi; chứ không thể thay đổi nửa vời như kiểu của ta trước đây. Nghĩ lại thời kỳ tháng 9/1999, Ông Tham tán Thương mại Hoa Kỳ tại Bắc Kinh mấy hôm trước hồ hởi báo với tôi: Bộ Thương mại Hoa Kỳ đang chuẩn bị hồ sơ Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký tắt, theo thỏa thuận, hai bên sẽ tổ chức Lễ ký long trọng tại Hội nghị APEC 7 Aucland, New Zealand, do nguyên thủ 2 nước là Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng thống Bill Clinton cùng ký. Nhưng sau vài ngày, Ông này điện cho tôi nói gay gắt: Phía Việt Nam đã phanh ngang xương mà không lời giải thích, vậy Ngài giải thích dùm! Lúc đó tôi chỉ biết xin lỗi theo kiểu ngoại giao và hẹn sẽ trả lời sau khi nhận được thông tin từ nhà. Và cho đến nay, không ai nói đến nguyên nhân của sự phanh ngang xương này!

Tôi nhắc lại: đảng thực sự thay đổi tư duy - đó là cốt lõi của sự thành công.

2) Bài học số 2: Phải hoàn thiện luật pháp đủ mạnh để triển khai Đặc khu Kinh tế.

Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin, toàn cầu hóa kinh tế, chúng ta phải hoàn thiện luật pháp theo xã hội "Pháp trị"; chứ không thể máy móc học tập cách điều hành kiểu "THƯỢNG PHƯƠNG BẢO KIẾM" TQ, Đặc khu cứ ban hành văn bản pháp luật theo yêu cầu của tình hình, sau đó Quốc hội, Chính phủ sẽ chạy theo ban hành luật, Nghị định...bổ sung.

Các bước sẽ nên tiên hành là:

Một là: Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, cho phép thành lập Đặc khu kinh tế với những chính sách đặc thù của nó, tựa như là một quốc gia riêng.

Hai là: Đặc khu kinh tế sẽ tự ra các văn bản điều chỉnh mọi hoạt động trong đặc khu, không phụ thuộc bất cứ các Nghị định hay Thông tư của các Bộ, ngành. (Đây chính là mô hình: Một nước hai chế độ)
Tất nhiên, Đặc khu chịu sự chi phối về an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước Việt Nam.

Ba là: Về bộ máy hành chính: thực hiện theo mô hình dịch vụ công. (Bộ máy hành chính từ nhân sự, cơ cấu tổ chức và hoạt động...nên theo mô hình như kiểu Hongkong, Dubai hiện nay)

3) Kiến nghị:

Sau khi đảng ta đã thực sự thay đổi tư duy, Quốc hôi ta đã có khung Pháp lý cho việc thành lập Đặc khu kinh tế; thì việc chọn địa điểm thử nghiệm rất quan trọng. Tôi rất phản đối xây dựng kinh tế theo lối phong trào: nào là phong trào khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, cảng biển, sân bay...địa phương nào cũng có, cũng nô nức thi đua; nhưng hiệu quả rất thấp, thậm chí lãng phí của cải, tài nguyên.

Do vậy, Tôi kiến nghị nên lựa chon Huyện đảo Phú Quốc để làm điểm.

Tại sao nên chọn Phú Quốc vì một số lý do (hay tiêu chí) sau đây:

Một là: Phú Quốc sẽ trở thành một "quốc gia" phát triển tự do tương tự như Singapore, bởi yếu tố địa lý tự nhiên, rất dễ trong việc kiểm soát xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu. Cảng Hàng không, Cảng biển sẽ trở thành 2 cửa khẩu quốc tế.
Hai là: Phú Quốc có điều kiện tự nhiên tuyệt vời: nhiệt độ quanh năm mát, ổn định; (hầu như) không có bão lũ; độ chiếu sáng bình quân năm cao...
Ba là: Là trung tâm của thủ đô các nước Asean - Thủ đô của các nước có tốc độ phát triển cao; Thuận lợi cho vận chuyển hàng không và đường biển.

4) Vĩ thanh:

Tôi đã được vinh dự tháp tùng, giúp việc cho một vị Lãnh đạo Đảng trong ngành Ngoại giao mà Tôi rất kính trọng về uyên thâm trong cốt cách và tầm nhìn; "Cụ" nói: "Ở ta, cái gì không muốn làm thì cứ đưa ra bàn!". Do vậy, các Lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng hãy quyết đi; không còn thời gian nữa đâu! Nếu lại đưa ra bàn thảo trong toàn đảng, toàn quân, toàn dân...thì coi như không làm, mất công bàn thảo. Bộ Chính trị nhóm họp và quyết là đủ rồi.

Tất nhiên, sự thành bại của một quyết sách lớn như vậy, không thể dễ dàng gì. Bài học từ Thâm Quyến chỉ là cung cấp cho ta một cơ sở dữ liệu, một kinh nghiệm hay của sự chuyển đổi từ nên kinh tế XHCN sang hoàn toàn kinh tế TBCN; nhưng Thâm Quyến cách đây 30 năm với những đặc điểm khó khăn, thuận lợi khác hẳn với Phú Quốc ngày nay; Còn bài học từ sự thành công của Inchon (Hàn Quốc) và Dubai cũng cần được mổ xẻ thích đáng, đặc biệt là mô hình quản trị ĐKKT của Hai tấm gương này cần được học tập noi theo có chọn lọc.

Cuối cùng là khâu nhân sự. Vạn sự thành bại tại con người! Việc lựa chọn người "Trưởng Đặc khu" là quyết định sự thành bại; Người này phải hội đủ trí tuệ, kiến thức hiện đại để điều hành Đặc khu; thậm chí mời nhân tài khắp thế giới theo kiểu "Ông bầu" đội bóng đá. Phải lấy "Phát triển là chân lý cứng" làm tiêu chí chọn lãnh đạo.

Cổ nhân dạy:"Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa" là 3 yếu tố quyết định vạn sự trong đời. Ta đã có 2 yếu tố ban đầu, còn "Nhân" có "Hòa" hay không? Xin hãy chờ xem hồi sau sẽ rõ.

Hồ Quốc Phi

Sửa bởi pth77: 12/07/2014 - 04:26


Thanked by 3 Members:

#109

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 13/07/2014 - 05:15

Câu chuyện về cư xử trong gia đình
Nguyễn Tất Thịnh
Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia
01:49' PM - Thứ bảy, 12/07/2014


Xin gửi các bạn 3 mẩu chuyện tôi đã gặp trong cuộc sống. Sau từng câu chuyện này, tôi cũng muốn bạn đọc liên tưởng đến những gì có thể, tự đặt ra những câu hỏi với xã hội, con người, cuộc sống xung quanh mình. Bởi quan niệm, hành vi, phong cách, tư duy của mỗi người đều là sản phẩm tất yếu của xã hội chúng ta đang sống trong đó, và con người nào thì xã hội ấy. Những trăn trở, những câu hỏi, muôn thuở là sự khởi đầu của những thay đổi cho dù rất nhỏ...

Không còn gia đình

Gần nhà tôi có một gia đình, chồng hơn 50 tuổi làm thủ trưởng một cơ quan lớn, vợ làm giáo viên tiểu học. Họ có 1 đứa con trai 5 tuổi. Ông thủ trưởng có lái xe của cơ quan hàng ngày đến đưa đón đi làm việc. Nhưng hơn cả công việc người lái xe còn phải thường xuyên đưa đón gia đình họ đi chơi. Bản thân anh lái xe có vợ và 2 con nhỏ chạc tuổi đứa con trai của thủ trưởng.
Vào một ngày Chủ Nhật nọ, như thường lệ, người lái xe đánh xe đến nhà thủ trưởng đưa cả gia đình họ đi chơi công viên. Hai vợ chồng thủ trưởng ngồi trên ghế đá quàng vai nhau trò chuyện tình tứ, còn ở góc xa kia anh nô đùa trông nom đứa con trai của họ, rất mực chiều chuộng. Tình cờ hôm đó vợ anh cũng đưa 2 đứa con của mình đi chơi công viên. Từ xa chị nhìn thấy anh như vậy, lặng đi, buồn bã và uất ức, về nhà không nói gì nhiều chị tuyên bố li dị anh và nhận nuôi 2 con nhỏ. Anh không biết nói sao đành chấp nhận.
Một thời gian sau đó, tôi đi ngang qua tình cờ thấy anh ngồi trên bục cửa nhà thủ trưởng anh, chống tay lên cằm, chăm chú nhìn đứa con trai của thủ trưởng đang chạy nhảy vui vẻ. Anh đăm đăm hướng nhìn vào đôi giày rất đẹp của nó đang đi, ánh mắt xa xăm và toát ra một vẻ ai oán, buồn thương khôn tả.
Tôi đi về nhà và cứ bị ám ảnh mãi bởi dáng vẻ, ánh mắt và cuộc sống của anh.
//fs.chungta.com/File.ashx/14124E6776864C6D8FB32525A6F38DAA/image=pjpeg/ba29441a2b4c41e08bdf70ecc6189a91/Gia%20dinh%20be.jpg


Ý nghĩa của Trí thức

Một công chức nọ được tiếng là học giỏi từ nhỏ, anh ta tốt nghiệp đại học và giành được một học vị cao tại nước ngoài, thời mà việc đào tạo được thực hiện bởi các hiệp định tương trợ giữa vài nước trong cùng một hệ chủ nghĩa với nhau.
Anh ta lấy vợ cũng khá sớm, vốn là cô gái ưa thích mẫu người đàn ông thông minh giỏi giang. Nhiều năm trôi qua, không ai hiểu thực ra anh ta làm gì trong những công việc hàng ngày, những chuyến đi công tác nước ngoài vì nếu có hỏi thì cũng chỉ nhận được câu trả lời ‘làm việc’, hay là ‘đi công tác’. Người ta muốn hỏi anh như là một sự tín nhiệm đối với cái CV của anh, nếu có nghe được câu gì từ anh thì đó thường là sự gật gù: cái tồn tại là cái có lí, cái có lí là cái tồn tại, điều này khá là phức tạp và tế nhị đấy…
Nhưng ai cũng thấy anh ta là người giỏi chịu nhịn vợ và chu đáo vô cùng. Trong bữa ăn, vợ tức giận tam bành, anh vẫn yên lặng ngồi ăn, và giục vợ ăn cho đủ 3 bát cơm mỗi bữa. Đi chơi xa, vợ con ăn uống xong những đồ mà anh dày công chuẩn bị mang đi, quay ra ca thán không có tăm xỉa răng, anh bèn lấy ra từ trong túi áo ngực một mảnh giấy ăn kẹp trong đó số tăm đủ cho mỗi người trong gia đình một cái. Anh cười tươi khi vợ bảo: anh chính là cái tăm trên miệng tôi. Ngày trước chị vợ còn hay có ý chê chồng không có tác phẩm khoa học gì, đến nay người ta hay nghe thấy chị bảo: bao nhiêu tác phẩm khoa học mà tớ đọc được của những bậc đồng nghiệp, cũng chả hiểu chúng vì cái gì, giá như có ý nghĩa như que tăm thôi thì cũng đã là phúc đức cho nước non quá.

Sự tan vỡ từ cách cư xử

Hai vợ chồng nhà kia, bằng tuổi nhau và thuở sinh viên cùng được đi du học tại một trường đại học nước ngoài. Khi đó cuộc sống thật vô vàn khó khăn. Đến khi tốt nghiệp về nước họ chung nhau mua được căn hộ 2 phòng, 1 bếp, mỗi người có 1 chiếc xe để đi làm, ngoài ra lại còn để dành được 3 chỉ vàng. Ngày ấy được thế là niềm mơ ước của bao nhiêu người.
3 chỉ vàng ấy họ để trong chiếc lọ thủy tinh nhỏ, cất dấu bằng cách dìm vào bể nước xây trong nhà. Một lần họ cãi nhau rất to ( tuy là trước đó vẫn có những cuộc cãi nhau nho nhỏ và trung bình ), đến mức 2 vợ chồng li thân nằm ngủ riêng. Chị vợ thao thức : lần này có lẽ đến mức bỏ nhau mất, nên chị nghĩ cần thủ thế phòng thân. Sáng hôm sau dậy nấu cơm sớm hơn thường lệ, việc đầu tiên là chị vục mặt vào bể nước tìm cái lọ cất 3 chỉ vàng, nhưng không thấy. Thấy kì lạ và hơi lo, nhưng cũng không thể hỏi ngay chồng. Một tuần sau họ đã hòa thụân trở lại. Đêm nằm bên nhau chi vợ hỏi chồng : Anh à, cái lọ thủy tinh nhà mình cất 3 chỉ vàng ở đâu nhỉ, sao em tìm không thấy? Chồng cười khì khì đắc thắng: Này, đằng ấy cứ tưởng mình khôn, nhưng anh còn khôn hơn mình nhé. Đằng ấy dậy 5 giờ sáng để lấy, nhưng anh đây đã dậy từ 2 giờ sáng lấy nó trước rồi nghe chưa.
Chị vợ bỗng nhiên cảm thấy hụt hẫng, sụp đổ tất cả tình cảm với chồng, lúc ấy cụ thể là gì, ra sao chị không thể tự giải thích được rõ ràng. Sáng hôm sau dậy sớm, chị viết sẵn 1 đơn li dị chồng, không một lời giải thích, không một lời yêu cầu, chị ra đi. Bây giờ chị kể cũng là người giàu có, thành đạt nhưng ở một mình, không ai có cách gì khiến chị muốn lấy chồng nữa.

Sửa bởi pth77: 13/07/2014 - 05:16


Thanked by 2 Members:

#110

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 14/07/2014 - 13:19

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



“Ai làm chủ giáo dục người đó có thể thay đổi thế giới.” - Gottfried Leibniz

Chúng ta ai cũng biết tầm quan trọng của nền giáo dục từ ngàn xưa đến nay, bao gồm giáo dục con người, giáo dục nhân cách và tri thức, điều này ảnh hưởng vô cùng to lớn đến tương lai của không chỉ cá nhân đó mà còn ảnh hường trực tiếp đến tương lai của một đất nước và dân tộc anh ta. Giáo dục không còn là việc của riêng ai mà là công việc của toàn xã hội, từ gia đình, trường học đến những phong tục tập quán ngàn xưa cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên nhân cách và thói quen của con người.
Giáo dục không chỉ là học tiểu học – trung học – đại học mà còn là những bài học dạy cho trẻ từ thuở lọt lòng. Mỗi quốc gia khác nhau thì có những nét đặc trưng khác nhau trong cách dạy con cái và giáo dục văn hóa cho các thế hệ tiếp nối. Chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng và phát triển cho thế giới này. Bạn có bao giờ thắc mắc tại sao có nước thì hùng mạnh nước thì không, tại sao có những con người thích tạo ra cái mới còn những người khác lại chỉ thích ngồi đợi những cái mới ấy? Tại sao có người coi sách như vàng còn những người khác lại coi sách là thứ chỉ để bán đồng nát? Phải chăng tất cả đều bắt nguồn từ những suy nghĩ và nhận thức mà mỗi người đều mang sẵn trong đầu. Và nhận thức đó từ đâu mà có? Phải chăng tất cả từ sự giáo dục, dạy dỗ mà họ nhận được từ khi còn thơ bé và luôn mang theo bên mình cho tới khi chết đi?
Chúng ta biết và đều ngầm thừa nhận rằng hầu hết con người Châu Âu – Mỹ đều tự lập và mạnh mẽ, người Pháp luôn điềm tĩnh chỉn chu, người Nhật thì cực kỳ khuôn phép và người Israel lại tuyệt đối thông minh sáng tạo… Tại sao lại có những sự khác biệt đó?
Hãy nghiên cứu nền giáo dục của họ, cách họ dạy dỗ một đứa trẻ từ khi lọt lòng cho tới khi nhận thức và trưởng thành. Sau đó hãy tự so sánh với nền văn hóa, giáo dục của Việt Nam chúng ta. Tôi tin bạn sẽ nhận ra và học hỏi được nhiều điều thú vị.
Bài viết có thể hơi dài, hãy kiên nhẫn…

Dạy trẻ kiểu… Anh

Mẹ Anh đối xử rất tốt với con theo nhiều cách khác nhau. Hầu hết họ không quát con to tiếng mà sử dụng những từ ngữ rất tình cảm và không bao giờ nói những điều tiêu cực về con mình, kể cả bé có hư đến thế nào. Có một mẹ Việt đi dạo đến công viên và nói chuyện với một vài người mẹ Anh cũng đang ở đó. Mẹ Việt kể về con mình với những từ đại loại như: “Nghịch như quỷ, hư lắm, đến giờ cầm thìa còn như cầm kiếm….” Và họ nói với cô rằng: “Có lẽ chị chưa kể về con mình một cách tích cực rồi!” Câu nói vu vơ nhưng làm mẹ Việt vô cùng xấu hổ. Cô chợt nhận ra nói đùa về con mình không làm cho vấn đề trở nên hài hước mà thậm chí biến cô thành một người mẹ tồi. Trong khi mẹ Anh luôn rất chu đáo, lịch sự và tôn trọng con mình. Ở những nơi công cộng, bến tàu điện ngầm, siêu thị, trong nhà hàng… nếu lớn tiếng mắng hay phạt con, bạn sẽ nhận được những ánh mắt như thể đang.. bạo hành bé vậy.
Mẹ Anh không bao giờ cạnh tranh hay dè bỉu nhau chuyện nuôi con. Thậm chí các bà mẹ thường xuyên chia sẻ về những điều vụng về của mình: “Sáng nay hết bánh mì nên cho con ăn khoai tây chiên vậy.” Những chia sẻ như thế thường nhận được rất nhiều đồng cảm của các bà mẹ khác. Tất cả những điều đó cũng chỉ để cho thấy rằng mẹ Anh không quan trong phải gồng mình thành những bà mẹ hoàn hảo.
Một bà mẹ Việt được mời đến gia đình người Anh dự tiệc Giáng Sinh, buổi tiệc rất đông con nít. Một cô bé mới 20 tháng tuổi tên là Ely, vừa đến là thích thú ngay với con heo bằng bông to đùng, nhấn vào mũi thì phát ra nhạc. Con heo đó thuộc ‘quyền sở hữu’ của một cô bé 10 tuổi khác, cũng là con cháu nhà đấy. Ban đầu, bé lớn sẵn lòng cho bé nhỏ mượn chơi, nhưng sau khoảng 30 phút thì bé lớn đòi lại. Lập tức, bé nhỏ khóc ré lên, lao về phía mẹ mình, chỉ tay về con heo. Mọi người trong nhà đều hiểu con bé muốn gì nhưng không một ai bênh vực bé cả. Mẹ của bé bế bé lên và chỉ cho bé những món đồ chơi khác, đứa bé vẫn khóc la nhưng mẹ bé kiên quyết không chiều theo.
Cuối cùng sau 10 phút, bé cũng quên con heo và bắt đầu chơi những món đồ chơi mới. Mẹ Việt thủ thỉ: “Ely ngoan quá! Nhưng sao chị không kêu Florence đưa con heo cho Ely, được vậy thì Ely đã không khóc lâu như thế!” Chị ấy mỉm cười giải thích: “Ồ, không nên chút nào! Đó vốn không phải là đồ chơi của Ely mà là của Florence. Florence đã cho mượn 30 phút, nếu Florence muốn lấy lại cũng là hợp lý! Quan trọng hơn là không nên tập cho trẻ con, dù còn rất nhỏ tuổi thói quen ĐÒI GÌ ĐƯỢC NẤY, NHẤT LÀ NHỮNG ĐÒI HỎI VÔ LÝ như vừa rồi!” Vậy mới thấy, mẹ Anh dạy con rằng không phải cứ nhỏ hơn là có quyền được ưu tiên mọi thứ.

Dạy con kiểu Đức

Dạy con từ thuở còn thơ, câu tục ngữ này không sai một chút nào nhưng dạy như thế nào mới là điều quan trọng. Mẹ Đức dạy con từ từ vựng đầu tiên mà các bé thực sự hiểu, đó là từ “không”. Khi nói “không” với bé, mẹ Đức nói rất nghiêm túc, rõ ràng để bé hiểu được đúng nghĩa của từ này, sau đó là giải thích tại sao bé “không” được phép làm. Bé chưa hiểu gì nhiều nhưng từ “không” được lặp đi lặp lại nhiều lần bé sẽ quen, bộ nhớ của trẻ như một cái tủ rỗng, từ “không” là thứ đồ đạc đầu tiên được đặt vào. Nên các bạn thấy, trẻ em phương Tây chơi chung với bạn rất tự giác và độc lập, chỉ cần nghe mẹ nói “không” là bé tự ý biết mình không được phép làm việc đó.
Đối với trẻ lớn hơn, chúng bắt đầu hình thành tính cách cá nhân nên chúng có lý lẽ của chúng để tránh từ “không” của bố mẹ. Trong trường hợp này cần đến đàm phán và thương lượng. Mẹ Đức giải thích lý do tại sao một cách cặn kẽ cho bé, vì dù sao bé cũng nên biết cái vạch giới hạn của bố mẹ đề ra. Đặc biệt khi mẹ nói “không” thì bố cũng phải đồng tình và ngược lại, vì bé sẽ cầu cứu người thứ ba. Để cho bé biết rằng điều đó được sự nhất trí của bố mẹ thì bố mẹ phải phối hợp ăn ý, khi không cầu cứu ai được nữa bé sẽ hiểu: À, mình “không” được phép làm thật rồi.
Phương châm của các bậc cha mẹ người Đức là làm bạn của trẻ để tìm phương án giải quyết tốt nhất, đừng cho rằng bố mẹ luôn luôn đúng và bắt buộc con luôn làm theo ý mình, điều này hoàn toàn sai lầm. Bố mẹ cũng phải tôn trọng ý kiến của con cái khi con nói “Không”.
Mẹ Đức cho rằng, mỗi đứa trẻ phát triển theo cách riêng của chúng nên họ không quan tâm nhiều đến chuyện cân nặng, chiều cao và nhất là không đem con mình ra so sánh với những trẻ khác. Điều này vừa khiến cho bố mẹ bận tâm suy nghĩ vừa thể hiện sự bất công đối với trẻ, khiến cho trẻ cảm thấy mình kém cỏi so với bạn bè.
Đối với người Đức, trẻ em cần được học tính tự lập từ rất sớm, ngay từ việc nhỏ nhất. Ví dụ, khi mẹ làm cái gì nên cho bé đứng hay ngồi bên cạnh xem cùng hoặc hướng dẫn cho bé làm cùng, đừng nói: “Con không được sờ vào, để mẹ làm một loáng cho nhanh.” Mẹ làm thì nhanh thật nhưng bé sẽ không học được gì nếu bố mẹ cứ làm hộ mãi. Khi nấu cơm hãy cho bé đong gạo, giặt quần áo hãy để bé tự cho quần áo của nó vào máy giặt. Dọn nhà hãy đưa cho bé một cái khăn và khoanh vùng, đây là vùng của con. Đặc biệt rác phải được bỏ vào thùng rác. Trẻ em học rất nhanh và nhớ lâu, chỉ cần hướng dẫn một lần, lần sau bé sẽ nhớ và tự ý thức được việc đó phải làm như thế nào.
Nhiều người cho rằng không nên cho trẻ con tiêu tiền sớm, vì tiền thúc giục bản năng xấu xa của con người. Người Đức dạy cho trẻ em cách tiêu tiền từ rất sớm. Người mẹ cho con một đồng và nói, con chỉ có một đồng thôi, nếu con mua kẹo thì con sẽ không được chơi ô tô, và nếu con chơi ô tô thì con sẽ không mua kẹo. Mỗi khi cho con đi mua đồ cùng, bé được phép chọn đồ và khi mẹ nói không được, cái này đắt quá, con chọn thứ khác đi, thứ nào rẻ hơn ấy. Lúc đầu bé không làm theo mà nằm ra đất khóc ăn vạ. Mẹ mặc kệ đẩy xe đi, bé khóc chán thì đứng lên chạy theo mẹ, nhiều lần như thế sẽ quen, để làm được việc này người mẹ cần phải rất kiên nhẫn.
Mỗi khi mua cái gì cho bé thì mẹ đều đưa tiền cho con trả kèm theo: “Con không được phép mang vật đó ra khỏi cửa hàng mà chưa trả tiền, như thế là không tốt, là phạm pháp.” Sau rất nhiều lần như thế bé sẽ biết: À ha, phải trả tiền trước khi mang đồ đi. Phải cho trẻ biết giá của đồ vật ấy là bao nhiêu, có hợp với túi tiền nhà mình không. Không dạy cho trẻ cách “có tiền ta mua được tất cả”, hoặc chúng đòi cái gì cũng mua với ý nghĩ con mình không thua con hàng xóm được. Điều ấy tạo cho trẻ sớm có tính đua đòi, tồi tệ nhất sẽ dẫn đến ăn cắp. Trong một đám bạn chơi chung, nhưng khi ra về đồ chơi của bạn nào được trả về đúng cho bạn đó.

Còn mẹ Pháp dạy con như thế nào?

Họ cho rằng, làm cha mẹ tốt không có nghĩa là phải thường xuyên phục dịch con cái của mình. Có lẽ vì vậy, người mẹ Pháp lúc nào cũng chỉn chu, sang trọng. Không bao giờ chúng ta thấy cảnh họ phải tất tả vì lũ trẻ. Mẹ Pháp để con cái tự phát triển là chính.
Thực ra, họ không hoàn toàn để mặc con cái mình. Họ giải thích rằng, họ không muốn lúc nào cũng bao bọc con cái, biến chúng thành những con thú nhồi bông. Họ hướng cho bọn trẻ tự do phát triển. Như vậy sẽ đỡ mệt mỏi cho bố mẹ, mà lại tốt hơn cho con cái.
Các bậc cha mẹ Pháp ít khi an ủi, dỗ dành con mình. Một ví dụ cụ thể là khi đứa trẻ gặp ác mộng, bà mẹ Pháp sẽ bình tĩnh nói với con mình rằng: “Cuộc sống này là thế đấy. Rồi con sẽ gặp nhiều chuyện kinh khủng hơn nhiều.” Và kết quả là, những đứa trẻ Pháp rất dễ chấp nhận và thích nghi với những điều tồi tệ của cuộc sống.
Liệu đó có phải lý do chúng ta luôn thấy người Pháp trong bộ dạng bảnh bao bình tĩnh, họ luôn điềm tĩnh một cách lạ lùng, cứ như thể chẳng có gì trên đời khiến họ phải bận tâm vậy. Điều đó vô tình tạo nên những người con Pháp vô cùng thanh t*o và luôn luôn trầm tĩnh trong mọi hoàn cảnh, bởi vì họ biết rằng, chuyện gì xảy ra cũng là lẽ rất thường?
Một so sánh khác là trong khi cha mẹ Mỹ thường có xu hướng ca ngợi, để khuyến khích con mình mỗi khi chúng làm được điều gì đó, dù chỉ là rất nhỏ, thì mẹ Pháp lại bình thường hoá những chuyện đó. Thậm chí, khi đứa trẻ khoe một bức tranh vừa mới vẽ, họ có thể cười nhạo và đùa rằng: “Còn lâu mới được bằng Picasso!” Mẹ Pháp không quá chú trọng đến chuyện con mình phải học nhiều, biết nhiều. Họ không khuyến khích con cái đọc sách trước khi lên sáu tuổi. Thay vào đó, họ để trẻ tự do phát triển trí não với những trò chơi thông minh, phù hợp lứa tuổi. Họ luôn nhiệt tình khi nói chuyện với con và dạy chúng nhận biết thế giới xung quanh.

Cách người Do Thái dạy trẻ

Từ lâu người Do Thái được biết đến là “dân tộc thông minh nhất thế giới”, chỉ với hơn 13 triệu dân nhưng đã sản sinh ra hơn 30% chủ nhân giải Nobel của toàn cầu. Nhiều người nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau là người Do Thái hoặc có gốc Do Thái như tỷ phú Warrant Buffet, tỷ phú George Soros, tỷ phú Abramovich (người Nga gốc Do Thái), Albert Einstein…
Dành thời gian lặn lội sang mảnh đất Israel xa xôi, chuyên gia Lại Thị Hải Lý – Sáng lập Tập đoàn Giáo dục và đầu tư VSK – phương án 0 tuổi tại Việt Nam là người đưa giáo dục sớm Do Thái về Việt Nam, đã đến nhiều trường mầm non và thăm các gia đình ở nước này, tận mắt tìm hiểu, lắng nghe cách dạy con và những bí quyết để có những thế hệ tài năng. Cô nhận xét: Người Do Thái yêu thương con với tầm nhìn xa, trông rộng… Bất cứ phụ huynh nào trên thế giới này đều yêu thương con cái nhưng với các bậc cha mẹ Do Thái luôn mong muốn tình yêu giọt máu đào, thấm sâu và nuôi dưỡng đứa trẻ nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho con chứ không phải là tình yêu kiểu giọt nước mát thỏa mãn những nhu cầu tức thì của con. Người Do Thái muốn đào tạo những đứa trẻ bản lĩnh, mạnh mẽ trong cuộc sống hàng ngày.
Theo quan niệm của các cha mẹ Do Thái, phụ huynh 100 điểm không bằng phụ huynh 80 điểm. Chính họ cho rằng phải tránh 3 “không” gồm: Không thỏa mãn trước, không thỏa mãn tức thì và không thỏa mãn quá mức. Phần 20 điểm còn lại không phải là không yêu con mà điều đó ẩn giấu vào tình yêu lý trí, khoa học, nghệ thuật. Ở Israel, có những trường mang tên quý tộc. Tuy nhiên, điều đặc biệt là khi trẻ em học ở đây được rèn luyện nhiều về chỉ số vượt khó AQ. Học sinh sẽ trải qua thử thách kể cả những vất vả. Các phụ huynh Do Thái rất chú trọng dạy con về tính tự lập, trẻ em có được kỹ năng phục vụ bản thân từ rất sớm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nhiều phụ huynh Do Thái vẫn kể cho con về câu chuyện “Cà rốt, trứng gà, cà phê” để định hướng cho trẻ cách đương đầu với khó khăn thử thách, hoặc câu chuyện “con lừa thồ sách trên lưng” để nhắc nhở con về việc ứng dụng tri thức vào thực tiễn. Việc phát triển trí tuệ rất được người Do Thái quan tâm, điều này là nhờ thói quen và đam mê đọc sách. Ở Israel cứ 4.500 người sẽ có một thư viện với các đầu sách cực kỳ quá giá, cả nước có hơn 1000 thư viện công cộng. Chính vì vậy, trẻ con Do Thái thường chủ động đọc sách từ rất sớm, sách quý được truyền từ đời này sang đời khác, tủ sách thường được đặt đầu giường của các em.
Tại mỗi gia đình người Do Thái, phụ huynh luôn chú trọng việc dạy con làm việc nhà. Từ lúc 2 tuổi, các em đã phải bắt đầu học để tự làm mọi việc như tự xúc cơm ăn. Ở trường học thường xuyên tổ chức các chuyến thăm quan 1 ngày tới nơi làm việc của cha mẹ. Nhiều em đã chảy nước mắt vì chứng kiến cha mẹ là thợ dệt phải làm việc quần quật cả ngày bên máy khâu. Trẻ em Do Thái đều phải giúp bố mẹ làm việc nhà, kể cả những gia đình giàu có nhất. Sự nuông chiều vốn không phải là triết lý của người Do Thái, mà tình yêu của người mẹ dành cho con nằm ở khả năng tự lập và trưởng thành của người con sau này.
Câu chuyện về gia đình sư tử mà các phụ huỵnh Do Thái vẫn kể với mục đích để nhắc nhở cho mỗi người làm cha mẹ mang đến nhiều suy ngẫm cực kỳ sâu sắc. Chuyện là, có một bà mẹ sư tử nói sẽ dạy con đi săn. Hai anh em sư tử quá hứng khởi, chạy quá nhanh nên người anh lăn vòng tròn và bị thương. Sau đó, mẹ sư tử cho người anh ở nhà. Hàng ngày, mẹ và em sư tử vẫn đi săn mồi nhưng khi ăn không quên để phần cho người anh. Từ đó, anh sư tử sống trong sự thoải mái, hàng ngày được ăn mà không phải đi kiếm mồi. Cho đến khi trưởng thành, mẹ sư tử mất, lúc đó 2 anh em phải tự đi kiếm ăn nhưng rồi chúng lạc nhau, sư tử anh không thể kiếm nổi đồ ăn cho mình nên đói mà chết. Trước khi chết sư tử anh chỉ thốt lên một câu rằng: “Con hận mẹ.”
Đối với phụ huynh Do Thái, giáo dục con cách quản lý tài sản được thực hiện ngày từ khi trẻ còn bé. Một bà mẹ có con là triệu phú ở Israel cho biết, mục tiêu ban đầu không phải tạo ra triệu phú mà triệu phú là hệ quả tất yếu của quá trình giáo dục.
Theo Cựu Thủ tướng Israel, dân tộc này đã coi trí tuệ và nguồn nhân lực, 13 triệu người dân Do Thái trên toàn thế giới chính là tài sản lớn nhất của dân tộc. Tinh hoa của nền giáo dục Do Thái đã được đúc kết hàng ngàn năm qua Kinh Tohran và Kinh Talmudh, qua cách nuôi dạy con cái của các gia đình Do Thái. Đó chính là tính tự lập và khả năng sinh tồn. Theo triết lý của người Do Thái, chỉ số thông minh IQ chỉ chiếm có 20% trong bí quyết thành công, còn lại 80% nằm ở chỉ số vượt khó AQ và khả năng ứng dụng kiến thức và thích nghi với cuộc sống EQ.
Người Do Thái cũng sớm rèn cho con khả năng quản lý tiền bạc và dạy con hiểu về giá trị của đồng tiền từ khi các em còn rất nhỏ. Việc cho con sớm nhận biết với tiền là cách để các bậc phụ huynh Do Thái giúp con mình sớm hiểu được giá trị của lao động. Với trẻ em Do Thái, 3 tuổi được dạy cách phân biệt tiền và biết giá tri tiền, 4 tuổi được bố mẹ đưa tiền để dùng mua sắm những đồ đơn giản, 5 tuổi hiểu có được là nhờ lao động nên phải chi tiêu hợp lý. Từ 6-10 tuổi được bố mẹ cho số tiền lớn hơn một chút và học cách quản lý tiền, tài sản, khi trẻ 10 tuổi sẽ có tài khoản riêng. Thậm chí, tại nhiều gia đình Do Thái, khi con làm việc nhà có thể thưởng những khoản tiền nho nhỏ.
Ngoài ra còn có thể kể đến thuyết Thai giáo học “Thai nhi là thiên tài” và phương pháp giáo dục sớm 0-6 tuổi được lưu truyền lại trong kinh Tohran và kinh Talmudh của người Do Thái. Chính vì vậy, trò chuyện với thai nhi, vận động nhẹ nhàng, giải toán cho bà bầu,… là các cách đã được các bà mẹ áp dụng để nâng cao khả năng phát triển trí tuệ cho thai nhi. Các nhà khoa học cũng cho rằng con người chỉ sử dụng 3-5% tiềm năng của não bộ, còn ở thiên tài Albert Einstein là 10%. Chính vì thế, việc tìm ra khả năng sản sinh tối đa tiềm năng của não bộ sẽ là cách để tạo ra những thiên tài. Giống như việc các nhà công nghệ gen di truyền đã kích hoạt sự phát triển của cây cà chua bằng ánh sáng đỏ vào đúng thời điểm, khiến cây cà chua phát triển khổng lồ trên nền sa mạc.
Một sự kích hoạt não bộ của trẻ đúng thời điểm sẽ giúp sản sinh ra những thiên tài. Là một chuyên gia về Giáo dục sớm, bà Lại Thị Hải Lý đã áp dụng bí quyết của người Israel đối với cô con gái Bella, kết quả là bé biết nói từ lúc 6 tháng tuổi, 13 tháng tuổi đã biết đọc chữ và 15 tháng tuổi đã nói được 200 từ tiếng Anh, hiện giờ ở tuổi lên 4, bé đã có thể giao tiếp đơn giản bằng 6 thứ tiếng. Đại sứ Đinh Xuân Lưu và học giả Lại Thị Hải Lý hy vọng rằng tinh hoa của nền giáo dục Israel có thể được Việt Nam áp dụng để tạo đà cho một thế hệ trẻ Việt Nam trí tuệ cao trong tương lai.

Một chuyến “dự giờ” trẻ Nhật học mầm non

Mầm non tại Nhật là một hệ thống giáo dục có tính hòa nhập, các bé không phân riêng từng lớp mà học chung cả với nhau. Trước 9 giờ 30 sáng và sau 3 giờ 30 chiều, cả trường đều chơi chung. Trong sân, những đứa trẻ lớn cầm tay những đứa trẻ nhỏ, những đứa nhỏ đuổi theo những đứa lớn. Chúng chơi đùa rất vui vẻ, như thể anh chị em ruột.
Trong những trường mầm non ở Nhật, dường như họ không hề quan tâm đến việc dạy kiến thức cho bọn trẻ. Chúng không có bất kì quyển vở nào, chỉ có những cuốn phác thảo mỗi tháng một lần. Trong kế hoạch giáo dục của của nhà trường cũng không hề có những môn học như Toán, chữ kana (chữ Nhật), nghệ thuật hay âm nhạc. Và cũng không có cả Tiếng Anh hay những cuộc thi Olympia Toán học quốc tế. Họ cũng không dạy trượt băng hay bơi lội. Khi bạn hỏi họ dạy bọn trẻ những gì thì bạn sẽ không bao giờ đoán được câu trả lời: “Chúng tôi dạy bọn trẻ cách luôn luôn mỉm cười!” Ở Nhật, bạn ở đâu không quan trọng, bạn đang nói chuyện với ai không quan trọng, mà quan trọng nhất là bạn phải ‘luôn mỉm cười’. Một cô gái luôn mỉm cười là cô gái xinh đẹp nhất.
Ngoài ra họ còn rất nghiêm túc khi dạy bọn trẻ cách sử dụng hai câu nói thể hiện phép lịch sự căn bản: “Xin lỗi” “Cảm ơn”. Điều này thể hiện rõ thong cách phục vụ bữa trưa tại trường. Một vài em sẽ được chọn ra để cùng giáo viên phục vụ trà cho các bạn cùng lớp, trước khi ăn lũ trẻ sẽ cùng nhau hô to cảm ơn cha mẹ, nhà trường và cách giáo viên đã cho chúng một bữa ăn ngon và đôi khi nó sẽ được thay thế bằng một vài hát vui vẻ. Việc trẻ được chọn ra để phục vụ các bạn khác không được coi là việc vặt mà nó giống như một vinh dự, một điều rất đặc biệt mà đứa trẻ được phép làm. Và khi giúp các bạn khác ăn uống, các bé cũng được cảm ơn một cách lịch sự nhất.
Đặc biệt, trẻ học mầm non tại Nhật học rất ít, mà chỉ chơi là nhiều. Chỉ có 30 phút trước khi ra về là giờ hát tập thể và nghe cô giáo kể chuyện. Toàn bộ thời gian còn lại, các bé có thể chơi bất cứ trò gì mình thích trong khuôn viên nhà trường.
Trong trường, có rất nhiều thứ để chơi, từ trong nhà ra đến ngoài sân, ở ngoài sân có bãi cát, xích đu, cầu trượt, dây leo… còn trong nhà có các loại nhạc cụ, đồ chơi, gỗ, gối, gấu bông, búp bê, chăn, chiếu, băng dính, giấy màu… Rất nhiều thứ để chơi, và những loại đồ chơi này đều có đặc điểm chung là giúp trẻ phát triển trí thông minh và khả năng sáng tạo. Trẻ sẽ phải suy nghĩ, tìm tòi cách chơi, cách kết hợp những thứ có sẵn trong lớp học hoặc ngoài sân để có được những trò chơi thú vị. Các bé được tự do chơi và làm thứ mình thích. Các cô giáo hoàn toàn không can thiệp vào quá trình vui chơi của trẻ, chỉ đứng từ xa quan sát và hỗ trợ khi cần thiết.
Bọn trẻ được tham gia vô vàn các hoạt động dã ngoại và ngoại khóa cực kỳ thú vị: Leo núi, thăm cảnh quan tự nhiên, đền chùa, di tích lịch sử. Ngoài ra chúng còn rất nhiều những ngày hội thể thao, biểu diễn văn nghệ, tham gia các lễ hội và sự kiện cộng đồng, những buổi giao lưu và các hoạt động triễn lãm nghệ thuật khác nữa.
Chúng được dạy cách để luôn cư xử như những công dân mẫu mực và tự lập trong những hành động nhỏ bé nhất. Để giúp trẻ có tình yêu thương với động vật, cô giáo không nói “các em phải biết yêu thương động vật”, mà họ cho các bé tự nuôi và chăm sóc một loại động vật gì đó như: gà, chuột lang, thỏ, rùa, thậm chí là cả giun đất… mỗi một nhóm từ 4 – 5 em sẽ chăm sóc một con. Qua quá trình các bé ngày ngày chăm sóc thú cưng của mình, chơi đùa, trò chuyện, cho ăn, dọn chuồng… đặc biệt những khi thú bị ốm, tình cảm của các bé với các loài động vật sẽ dần được hình thành. Sau đó, cô giáo chỉ cần nói rất ít về tình yêu thương động vật mà trẻ vẫn hiểu được một cách sâu sắc.
Để giúp trẻ hiểu rằng không nên lãng phí đồ ăn, cô giáo không giảng “một hạt thóc vàng chín hạt mồ hôi, nên các em không được lãng phí…”. Các bé được trực tiếp trồng lúa hoặc các loại rau củ trong vườn cây hoặc bồn hoa của trường. Các bé sẽ tự gieo hạt, chăm sóc, cho tới thu hoạch, tất nhiên là vẫn dưới có giáo viên hướng dẫn nhưng chủ yếu là các bé tự làm. Qua đó, trẻ hiểu được để làm ra được một củ cải hoặc một củ khoai cho các bé ăn, các bác nông dân đã vất vả như thế nào.
Và đặc biệt, trẻ rất ham học, một cách tự nhiên chứ không hề gò ép. Các cô giáo giải thích rằng, nhắc nhở hoặc thậm chí là cả quát mắng đi chăng nữa thì cũng chỉ có thể khiến các bé im lặng trong ít phút, quan trọng là phải làm sao để khơi dậy được sự ham học trong trẻ. Trẻ em rất thích những điều mới lạ, nếu bắt các bé phải ngồi im trong lớp cả ngày thì lớp học sẽ trở thành một cái gì đó rất nhàm chán; ngược lại vì cả ngày đã được nô đùa chạy nhảy thoải mái rồi, do đó, với các bé việc học là một cái gì đó rất mới, rất hấp dẫn, rất thú vị (vì thật ra một ngày các bé chỉ ngồi trong lớp học có 30 phút), nên bé nào cũng háo hức và chăm chú lắng nghe. Các bé không phải học, mà là được học.

Cùng xem học sinh Mỹ học tiểu học

Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ có cảm giác rằng, một học sinh học lớp 5, chuẩn bị tốt nghiệp tiểu học mà yêu cầu về năng lực toán học chỉ là biết cộng, trừ, nhân, chia, thì trình độ… thấp quá. Một cô giáo mẫu giáo người Trung Quốc về hưu thấy học sinh tiểu học Mỹ suốt ngày “chỉ biết chơi” thì không khỏi ngạc nhiên và lo lắng cho cậu cháu Hoa kiều ở Mỹ của mình. Bà nói với mẹ của cậu bé: Nếu là ở Trung Quốc, áp lực của học sinh chuẩn bị tốt nghiệp tiểu học rất lớn, cả ngày phải cắm đầu vào làm bài tập… Nhưng cháu tôi thì sao? Mỗi ngày tan học về là đi đá bóng, chơi bóng bầu dục cùng lũ trẻ… thời gian cho việc làm bài, tập đàn ít như thế, làm mẹ thì phải chú ý!
Người mẹ nói, thành tích của cháu ở trường hầu như là điểm A, trừ đôi khi ngẫu nhiên sai sót, nhiều lần cháu đem về toàn điểm 100. Đối với học sinh tiểu học ở Mỹ thì như vậy là đủ rồi. Giáo dục tiểu học không phải là giáo dục tinh anh, cần tạo điều kiện phát triển toàn diện cho trẻ, chú trọng việc kết bạn, vận động và những hoạt động ngoại khóa.
Đương nhiên, người bà của cậu bé vẫn không bằng lòng, bà nói bài giảng của Mỹ quá nhẹ nhàng, bài tập quá đơn giản, thì chắc thi cử cũng rất dễ dàng. Bà nhấn mạnh, người Trung Quốc chúng tôi coi trọng các nền tảng cơ sở vững chắc. Kỳ thực, người Mỹ cũng coi trọng việc xây dựng nền tảng.
Chỉ có điều cái gọi là “cơ sở” của người Trung Quốc và người Mỹ khác nhau. Người Mỹ coi trọng nền tảng làm người, quan niệm này đã được bồi đắp từ nhỏ. Cơ sở mà học sinh ở Mỹ cần tạo dựng là ý thức tự tin, thành thực, lương thiện, công bằng, bao dung và độc lập tự chủ để làm người, cũng có nghĩa là, ngay từ nhỏ, họ đã học được giá trị cơ bản của văn hóa Mỹ, chứ không phải là tri thức để phục vụ giá trị cơ bản này.
Một người cha Trung Quốc đưa cậu con trai chín tuổi tới Mỹ, cho con vào học một ngôi trường ở Mỹ thì trong lòng lo lắng vô cùng, không hiểu đó là trường học kiểu gì! Trong lớp học sinh tự do tùy ý thảo luận, có thể cười ầm ĩ; giáo viên và học sinh thường xuyên cùng ngồi bệt trên mặt đất không phân biệt lớn bé; vào giờ học mà cứ như đang chơi trò chơi; Ba giờ chiều đã là tan học; lại không có sách giáo khoa thống nhất.
Ông đem cho giáo viên xem bài học tiểu học lớp 4 mà con ông đã học ở Trung Quốc, giáo viên nói với ông, cho tới lớp 6, con trai ông không phải học thêm môn toán nữa. Lúc đó, ông bắt đầu hối hận vì đem con đến Mỹ mà làm lỡ việc học của con. Ở Trung Quốc, cặp sách của học sinh nặng trịch những tri thức, còn nhìn con mình bây giờ, mỗi ngày mang cái cặp nhẹ tênh đến trường, đi học như đi chơi. Một học kỳ nháy mắt đã hết, ông không khỏi nghĩ ngợi, hỏi con, ấn tượng sâu sắc nhất khi đến Mỹ học là gì? Cậu bé đáp: “Tự do.”
Lại một bận, cứ tan học, đứa trẻ lại chạy tới thư viện rồi mang một lô sách về nhà, thế mà chưa tới hai ngày đã trả. Ông lại hỏi, mượn sách nhiều như thế để làm gì? Con trai đáp: “Làm bài tập.” Sau đó, ông nhìn thấy tên bài tập mà cậu bé đang làm trên máy vi tính “Hôm qua và hôm nay của Trung Quốc”, ông kinh ngạc suýt ngã, đây là chủ đề môn học gì vậy? Thử hỏi vị nào đang làmtiến sĩ dám “ôm” đề tài lớn như thế?
Ông chất vấn con trai, đây là chủ ý của ai, cậu bé hồn nhiên đáp: “Thầy giáo nói, Mỹ là một nước di dân, mỗi học sinh đều cần viết một bài về đất nước mà tổ tiên mình đã sinh sống, còn phải phân tích sự khác biệt so với nước Mỹ dựa trên địa lý, lịch sử, nhân văn, đồng thời phải đưa ra quan điểm và cách nhìn của mình.” Người cha im lặng.
Mấy ngày sau, ông thấy bài tập của con trai đã xong, một tập gồm hơn 20 trang giấy, từ Hoàng Hà chín khúc đến văn tự tượng hình; từ con đường tơ lụa tới lá cờ ngũ tinh… Cả bài văn được viết với một khí thế hào hùng, có lý lẽ, có căn cứ, phân chương phân tiết, đặc biệt là một danh sách thư mục tham khảo ở phần cuối khiến người cha không khỏi bàng hoàng, cái cách thức của một luận văn tiến sĩ này, ngoài ba mươi tuổi ông mới học được.

Còn Việt Nam…

Không có gì nhiều để nói cả, tôi muốn bạn hãy tự cảm nhận và đánh giá cách giáo dục trẻ em của chúng ta. Tôi cũng không hề chê trách cách thức và phương pháp mà chúng ta đang dùng dạy dỗ con em mình, từ lọt lòng, mầm non hay tiểu học. Cũng như không hoàn toàn cho rằng cách họ dạy con trẻ là hoản hảo, toàn diện hay tuyệt vời. Tôi chỉ thật sự mong muốn chúng ta nhìn lại nền giáo dục và cách giáo dục của chúng ta hiện nay, có gì bất cập, thật ra là quá nhiều bất cập, cần có chút gì đó đổi mới, cần phải đổi mới. Để các thế hệ tiếp nối có nhiều cơ hội làm rạng danh nước nhà.
Một đất nước muốn thay đổi thì trước tiên phải thay đổi con người, nhất là thế hệ trẻ, thế hệ tương lai. Chúng ta có lẽ đều muốn nhưng sự thật là để thay đổi cả nền giáo dục là một điều cực kỳ khó khăn, vậy thì hãy thay đổi từng bước một, bắt đầu từ việc làm mới lại cách giáo dục mầm non toàn diện hơn nữa, hãy chú trọng giáo dục nhân cách trước rồi hãy nhồi nhét kiến thức vào sau. Mỗi người chúng ta cũng đừng phí thời gian chờ đợi các chính sách của Nhà Nước, mà tự mình, hãy chắt lọc tinh hoa của thế giới mà giáo dục con cái của mình, ngay hôm nay. Để một ngày kia, Việt Nam tự hào là thế hệ vừa tự lập và mạnh mẽ, vừa đạo đức và sáng tạo, vừa bản lĩnh và không ngừng vươn xa…
Bài viết tham khảo từ các nguồn:

Phi Tuyết


Sửa bởi pth77: 14/07/2014 - 13:21


Thanked by 2 Members:

#111

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 15/07/2014 - 03:56

Bộ phim “Nền giáo dục cấm đoán” – Chưa từng có những nền giáo dục tạo ra con người tự do

Bộ phim “Nền giáo dục cấm đoán” (La Educacion Prohibida) được sản xuất năm 2012 tại Arghentina, bởi đạo diễn Germán Doin là một bộ phim tài liệu với cái nhìn thẳng thắn về bản chất của mọi nền giáo dục. Lấy bối cảnh của nền giáo dục Arghentina, nhưng vấn đề của các nhà làm phim đặt ra lại mang tính toàn cầu.
Bộ phim nêu ra thực trạng rằng các trường học ngày nay không dậy cho học sinh, sinh viên các kiến thức hữu ích hay đạo đức, nhân phẩm, mà vốn dĩ chỉ là các trại trông trẻ, hay nói nặng nề hơn, là nhà tù. Trong nhà tù này, học sinh, sinh viên phải trải qua hết thời hạn, các quy trình đo đếm (điểm chác, tiêu chuẩn), và không được nói lên tiếng nói thật sự của mình…
Bên cạnh đó, nhà làm phim cho chúng ta nhìn thấy tiến trình phát triển của nền giáo dục: Ở Athen, giáo dục bắt buộc chỉ dành cho nô lệ; ở Sparta, giáo dục để đào tạo quân nhân phục vụ quân đội; trong thời Trung Cổ, giáo dục trở thành công cụ tuyên truyền của nhà thờ… Nền giáo dục thời Khai Sáng, được các nhà làm phim gọi tên một cách rất mỉa mai: “sự chuyên chế của Khai Sáng”, là thời điểm ý tưởng về “giáo dục phổ thông” bắt đầu “đại chúng, miễn phí và bắt buộc”. Bản chất của nền giáo dục Khai Sáng là ngăn chặn các cuộc nổi dậy giống như đã diễn ra ở Pháp ở thế kỷ 17,18, bằng cách tạo ra các đám đông biết vâng lời và dễ bảo. Mô hình giáo dục phổ thông này nhanh chóng lan từ Đức sang khắp Châu Âu và Châu Mỹ. Thậm chí khi đã được tư nhân hóa thì chính những tập đoàn lại lợi dụng trường học để tạo ra những “công nhân thông minh” cho mình. Cho đến nay, mô hình giáo dục phổ thông có từ thời “Khai Sáng” vẫn chi phối thế giới.

Người viết lời bình cho bộ phim này đã có một câu bình rất sâu sắc: “Dây chuyền sản xuất hàng loạt là một ví dụ cho nền giáo dục, giáo dục được áp đặt lên đứa trẻ có thể so sánh với quá trình sản xuất ra một sản phẩm, vì thế đòi hỏi các bước cụ thể và bắt buộc theo một trình tự cụ thể: Gom nhóm trẻ nhỏ theo độ tuổi và các cấp học. Và từng giai đoạn chúng sẽ làm việc với các môn học cụ thể, nội dung học được đảm bảo hiệu quả và được thiết lập kỹ lưỡng bởi một chuyên gia.” (Chuyên gia ấy chính là giáo viên)… Một trong số những nhân vật được phỏng vấn đã nhận định “Nhưng giáo dục không được thiết kế bởi các nhà khoa học,… nực cười thay, nó chẳng phải do các nhà giáo dục, mà thực ra là bởi đám quan lại và tay sai, những kẻ đ*o bao giờ biết dạy học là như thế nào” hay “Giáo viên là công chức của bộ máy lãnh đạo, và họ phải nghe lời chủ: m*y dạy thế này, cái nọ, cái kia và phải theo cách này”
Chúng ta có thể thấy, nền giáo dục phổ thông không tạo ra những con người tự do khi phải học cùng một thứ, học sinh – sinh viên bị đồng hóa với điểm số, bị đào tạo như trong nhà tù hoặc quân ngũ bằng các hồi chuông và các kỷ luật nghiêm ngặt. Bộ phim đã đưa ra một vấn đề sai lầm của mọi nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục Khai Sáng, đó là giới hạn nền giáo dục ở trong khuôn khổ trường học.
Vậy làm thế nào để có một nền giáo dục phát triển con người một cách tự nhiên nhất. Điều này chỉ có thể đến từ việc tìm hiểu bản thể của con người, tiềm năng phát triển và độ tuổi phát lộ tài năng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, người lớn thường chẳng hiểu gì về trẻ con và cũng không thật sự quan sát chúng.
Các nhà làm phim cho rằng bản chất của con người là ham học hỏi. Trẻ con luôn mồm hỏi người lớn câu hỏi “Tại sao?”, chúng có đầy đủ óc lý luận, sự sáng tạo, trí tưởng tượng… nhưng trường học đã hủy hoại toàn bộ các khả năng này. Trẻ con có thể một cách rất tự nhiên, nhanh chóng nắm bắt các quy luật tự nhiên và thích ứng với môi trường xã hội, thậm chí là khả năng tự điều khiển bản thân mình. Xã hội thậm chí không cần đến trường học, chúng ta chỉ cần tạo dựng các môi trường để trẻ có thể phát triển tự nhiên. Đó sẽ là tương lai của nền giáo dục, nơi không có sự áp đặt chân lý, không có sự nhồi sọ, không có sự đánh giá, một môi trường được tạo dựng nên nền tảng của các cảm xúc tích cực chứ không phải bằng các hệ thống lý thuyết.

Mời các bạn xem bộ phim “Nền giáo dục cấm đoán”, bật nút CC để xem Phụ đề Tiếng Việt:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chúng ta không chỉ chờ đợi những cuộc cải cách giáo dục nữa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tạo ra một cuộc Cách mạng trong giáo dục. Chúng ta cần thay thế mô hình giáo dục phổ thông của thời Khai Sáng bằng những mô hình nhân tính hơn, tự do hơn và thực tế hơn. Đã đến lúc các nhà giáo dục phải nghiêm túc nhận định rằng nhu cầu định hướng xã hội bằng cách định hướng tư tưởng của trẻ em là một sai lầm ngớ ngẩn. Họ phải chấp nhận xã hội là một thể phức tạp và hỗn độn, mỗi cá nhân là duy nhất, có trạng thái tâm lý, có mục tiêu, có tiền trình phát triển khác biệt.
Khi xem bộ phim này, tôi lại nhớ tới một loạt những tác phẩm nêu cao sự tự do giáo dục như: ca khúc của Pink Floyd

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

với lời kêu gọi “Hey, teacher, leave the kids alone”; cuốn tiểu thuyết

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

với lớp học trên con tàu mà “ngồi học ở đây sẽ giống như đang trong một chuyến đi dài, cứ đi mãi, đi mãi” ; hay bộ phim “The dead poet society” với lời dạy của thày giáo John Keating “Các em phải cố gắng tìm được tiếng nói của các em. Bởi vì nếu em càng chần chừ, em càng có nguy cơ không tìm được nó. Thoreau đã nói, “Đa số mọi người sống một cuộc đời trong vật vã thinh lặng.” Đừng cam chịu điều đó. Hãy vỡ tung! Đây chính là thời điểm để vỡ tung!” ,…(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
Còn các bạn thì sao? Các bạn đã sẵn sàng để “vỡ tung”?

Hà Thủy Nguyên


Sửa bởi pth77: 15/07/2014 - 03:57


Thanked by 2 Members:

#112

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 16/07/2014 - 02:31

Lực Chuyển 3: Công Nghệ Phản Động
Alan Phan

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(Bài 4 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


7 July 2014

Hiện nay một chữ được hâm mộ khắp vũ trụ kinh tế tài chánh toàn cầu là “phản động”, dịch thoáng từ Anh ngữ: disrupt (verb), disruptor (noun) hay disruptive (adjective). Disruptor thực ra là kẻ “thọc gậy bánh xe”, người phản nghịch…gây ra tình huống mới rất disruptive….cho sự ổn định của hệ thống, của cơ chế, của tổ chức, của lối kinh doanh bình thường, cổ truyền…Tóm lại, một thế lực thù địch có hành vi phản động muốn phá hoại trật tự.
Trong những road shows gây quỹ, trên thị trường chứng khoán, tại các mạng truyền thông…chữ phản động được đề cao như là một thành tích và tài sản quý giá nhất của bất cứ doanh nghiệp nào. Hai mươi năm trước, mọi công ty đều cố gắn nhãn dotcom sau tên gọi; rồi sau đó là e- hay i-, rồi là social network, là mobile platform, là IT cloud …Bây giờ, phản động là lời khen tốt nhất.

Nguyên lý của phản động

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thực ra, lịch sử thế giới luôn tạo tiến bộ bằng hành vi phản động. Những cuộc cách mạng bắt đầu bằng triết thuyết phản động, tiến hành bởi những tổ chức phản động…cho đến khi nắm được chính quyền. Sau đó, kẻ nào chống lại “cách mạng” đều là phản động.
Lịch sử kinh tế cũng diễn biến tương tự. Một hay nhiều công ty sẽ đề xướng một mô hình kinh doanh mới lạ, khác hẳn với cách kinh doanh truyền thống. Sau khi họ thuyết phục được người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị trường, thì họ lại phải đối phó với những disruptors mới, tìm cách thay đổi cuộc chơi (game changers). Họ phải biết điều chỉnh…nhưng thường là bị tiêu diệt bởi các đối thủ nhỏ hơn, trẻ hơn, nhanh lẹ hơn, sáng tạo hơn…
Vài thí dụ. Vào thập kỷ 70’s, IBM thống lĩnh thị trường máy tính điện tử. DEC (Digital Equipment) nghĩ là chỉ nên nhắm vào thị trường ngách là máy tính cỡ trung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thành công tuyệt đỉnh trong thập kỷ 80’s, DEC đã bị Apple và các nhà sản xuất PC xóa tên trên địa bàn máy tính cá nhân. IBM và Apple đã nhanh chân đổi mới khi mô hình phản động chuyển qua tablet, smart phone và điện toán đám mây…nhưng các disruptors lớn nhỏ vẫn đang tìm cách hạ bệ những ông khủng long này. Bọn phản động còn đặt trong tầm nhắm các đại gia như Google, Facebook, Amazon, Boeing, GM, Toyota, Samsung…Định luật này được hiểu như là huỷ diệt để sáng tạo (creative destruction).
Ngay chính Microsoft đã đẩy IBM qua một bên với lối tiếp thị phần mềm trực tiếp cho các nhà sản xuất PC; Amazon đã chôn vùi những hệ thống bán sách lớn nhất thế giới như Border, Dalton, Barnes & Nobles; Tesla đang thử thách sự thống trị thế giới ô tô của Toyota, GM, Ford; hay Skype đã đảo lộn trật tự viễn thông của AT&T và những đại công ty thế giới; và cả ngàn disruptors khác đang tranh nhau để trở thành “the next best thing”.

Các công ty phản động

Trong 30 năm qua, có đến 47% những công ty “tỷ đô” khởi nguồn từ con số không 15 năm trước đó. Chưa bao giờ lịch sử kinh tế toàn cầu lại có sự thay đổi ngôi vị, thứ hạng, tài sản…nhanh như vậy. Công nghệ phản động đã là động cơ chính turbocharged những cuộc cách mạng mới này.
Mạng truyền thông CNBC bắt đầu lên danh sách Top 50 Disruptors hàng năm, được chia sẻ bởi các nhà đầu tư nhiều hơn Top 500 người giàu nhất của Forbes hay Fortune. Các nhà bình luận, phân tích gia…theo dõi và đánh giá những hoạt động của các disruptors hàng ngày. Và quan trọng hơn hết, dòng tiền đầu tư cũng như venture capital đang ào ạt đổ vào kênh này, hy vọng sẽ bắt đúng một siêu sao như Facebook, Alibaba, Google…
Các disruptors đang thay đổi cuộc chơi đã đạt thị giá hơn tỷ đô la gồm có những tên tuổi quen thuộc như Twitter, DropBox, Pinterest, AirBnb, Uber, Square…Tuy nhiên, các nhà đầu tư đang sục sạo đi tìm những viên kim cương lẫn trong đá sỏi. Những disruptors có tiềm năng trên nhiều danh sách là DocuSign, Genband, GiamMedia, Xirrus, Dataminr, TransferWise, RedFin, Kickstarter…Bạn chỉ cần tìm ra một “siêu sao” trong đám đông này là bảo đảm sự an toàn tài chánh của cá nhân và gia đình bạn trong nhiều thập kỷ.
Dù nằm trong bất cứ lãnh vực nào, các disruptors đều có thể thành công vĩ đại hay thất bại thảm thương. Ngoài từng cá nhân mỗi công ty, bạn có thể đầu tư thì giờ và tiền bạc vào ba công nghệ mà mọi người tin sẽ là nền tảng cho tương lai kinh tế trong vài thập kỷ tới. Đó là “3D Printing”, “Robotic Command System” và “Internet of Things”. Mỗi công nghệ đều được ước tính là sẽ mang lại khoảng 1 ngàn tỷ đô la trong 10 năm tới và có thể nhiều hơn.

3D Printing

Sau Internet, có lẽ đây là công nghệ có khả năng thay đổi hiện trạng kinh tế toàn cầu. Nó được so sánh với sự phát minh của máy in Guttenberg, của động cơ xe hơi, và ngay cả của lửa. Mọi cách thức vận hành một nhà máy sản xuất sẽ biến dạng sâu rộng.
Lấy ví dụ chúng ta muốn sản xuất đinh vít. Theo mô hình hiện tại, mỗi cỡ đinh phải được làm khuôn, rồi sản xuất ra cả trăm ngàn đơn vị và phải tồn kho, vận chuyển, kiểm soát thật tốn kém cho từng chặng sản xuất. Một nhà máy làm động cơ phản lực bên Mỹ chỉ cần khoảng 1 ngàn đơn vị cho 3 cỡ đinh và phải mua qua các nhà nhập khẩu phân phối từ Trung Quốc. Với máy 3D printer, nhà máy bên Mỹ chỉ cần viết hay mua lại phần mềm và tự sản xuất 3 cỡ đinh này trong 20 phút. Không những chỉ đinh vít mà tất cả cơ phận của động cơ đều có thể tự in ra và ráp nối.
Vì 3D printer có thể dùng bất cứ nguyên liệu gì, nên nhiều phòng thí nghiệm đã bắt đầu thử làm những bộ phận của thân thể, đơn giản như cơ bắp, xương, răng, mạch máu…và chỉ trong vài năm nữa, một quả thận, một lá gan, ngay cả trái tim nhân tạo…cũng có thể được sản xuất ngay trong bệnh viện theo đúng kích thước, nhu cầu cá nhân. 3D printing sẽ hiện thực bất cứ điều gì bạn nghĩ trong đầu khi coi các phim khoa học giả tưởng.
Dĩ nhiên, mặt trái của 3D printing là sự dễ dàng sản xuất những vũ khí khủng bố, khó kiểm soát được thuế và tài chánh (khi cơ xưởng của bạn nằm trong garage), nạn thất nghiệp của người lao động không có kỹ năng, và vấn đề ăn cắp bản quyền trí tuệ.
Hiện nay, một máy 3D printer đơn giản cho người tiêu dùng chỉ tốn có 2 ngàn đô la và giá này trong tương lai còn xuống thấp hơn một chiếc IPhone nhờ số lượng sản xuất.

Robotic Command System (RCS)

Khi nói đến robots, mọi người hình dung đến những người máy với chân tay cứng ngắc, và những tác động giống như con người. Thực tình, robots trong tương lai chỉ là những máy tính lớn nhỏ với các phần mềm điều khiển ngay tại chỗ hay từ xa. Robots dùng trong dây chuyền của cơ xưởng lắp ráp ô tô chỉ là những “cánh tay” liên tục di chuyển vật liệu rồi hàn hay vặn vít. Tuy nhiên, trong tương lai gần, robots sẽ được trang bị nhiều chức năng hơn và theo ước tính của McKinsey, 40% nhân công trong các nhà máy sản xuất công nghiệp sẽ bị robots thay thế trong 20 năm tới.
Ứng dụng phổ thông nhất hiện nay của RCS là máy bay không người lái (drones), đang được quân đội Mỹ điều động khắp các mặt trận. Giá bán của drone đã xuống khá thấp để những công ty thương mại hay cá nhân có thể sở hữu; nhưng chính phủ Mỹ vẫn chưa soạn thảo xong luật kiểm soát về sự an toàn hay việc lợi dụng drones trong các dịch vụ phi pháp (do thám của tư nhân hay vận chuyển ma tuý).
Google cho biết sẽ bán ra thị trường xe hơi không người lái vào khoảng 2017. Sony cho ra đời cách đây vài năm một robot tên Asimo biết làm các công việc vặt trong nhà như tưới cây, bưng nước, ca hát nhảy múa…còn hãng Tosy của Việt Nam thì cho ra đời một robot biết đánh ping pong. Người tiêu dùng Mỹ hiện đang chuộng loại máy tự động chùi dọn nhà cửa bằng cách hút bụi thảm hay chùi sàn.
Quan trọng hơn, robots có thể thay người trong những việc nguy hiểm như gỡ bom mìn, hay độc hại như xử lý phóng xạ hay môi trường khắc nghiệt của nóng và lạnh (dương hay âm ngàn độ C)…Trong ngành y khoa, những robots siêu vi được tiêm vào bệnh nhân để dò tìm hay chữa trị những biến thái trong mạch máu và các bộ phận khác.
Trong tương lai, khi artificial intelligence hoàn thiện hơn nữa thì robots sẽ hiện diện cùng khắp xã hội và chung sống hoà bình cùng nhân loại. Nhưng chỉ trong vòng 20 năm tới, chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng về cách vận hành sản xuất, cung cấp dịch vụ và nhiều ứng dụng do robotics đem lai.

Internet of Things (IOT)

Nói nôm na, IOT là việc sử dụng Internet và phần mềm để các máy trao đổi thông tin rồi quyết định vận hành mà không cần tương tác với con người.
Ví dụ một ngôi nhà thông minh sẽ biết là bạn cần máy sưởi hay máy lạnh vào những giờ giấc nào trong ngày và tự động xử lý. Tủ lạnh thông minh sẽ biết là bạn cần sữa hay bánh mì hay trái cây gì…và tự liên hệ với máy tính của siêu thị để đặt hàng. Chiếc xe thông minh sẽ thông báo là chỗ đậu xe nào trong thành phố còn trống; do đó bạn không phải chạy xe lòng vòng tìm chỗ đậu. Một phòng mạch thông minh sẽ khám bệnh qua các sensors cài sẵn trên điện thoại của bệnh nhân, ngay cả khi nạn nhân chưa cảm thấy bệnh chứng.
Ở bình diện rộng hơn, một thành phố thông minh sẽ tự tưới cây, lên đèn ban đêm, điều phối traffic, báo động về động đất hay lửa hay lụt, cũng như điều hành xe rác, xe quét đường…đo lượng ô nhiễm, lượng chất thải ra sông biển…để cùng xử lý với các hệ thống máy tính khác.
Trong kinh doanh, một công ty thông minh sẽ tự xuất hoá đơn, thu và trả tiền, lập chương trình giao hàng, kiểm soát toàn bộ supply chain, lập kế hoạch bảo trì máy móc và xe cộ, ngay cả quản trị hồ sơ nhân viên và các chương trình phúc lợi. Trong nông nghiệp, hệ thống máy tưới cây tự động, gieo giống hay bón phân, trồng và gặt theo thời điểm của khí hậu và thị trường, chương trình chăm nuôi và cho gia súc ăn…là những thay đổi đang diễn ra sâu rộng tại Mỹ.
Libelium, một công ty tiền phong trong IOT, ước tính là đến 2020 sẽ có 50 tỷ máy móc kết nối trực tiếp với nhau để điều hành sinh hoạt hàng ngày của nhân loại.
*******
Nếu các bạn bắt đầu vào ngày hôm nay, tạo cho mình kỹ năng chuyên sâu và kiến thức cập nhật về một trong ba công nghệ này; rồi tìm cách làm việc hay kinh doanh vào các hoạt động liên quan; tôi tin chắc là tối thiểu các bạn sẽ trở thành triệu phú đô la, sớm hay chậm tuỳ kỹ năng, lòng kiên nhẫn và ý chí theo đuổi đến cùng. Bạn có thể là một nghiên cứu sinh, một chuyên viên, một nhà đầu tư hay chỉ một nhà bán lẻ phân phối hàng hoá và dịch vụ. Hãy bắt đầu bằng cách lên các search engines để tìm biết tất cả kiến thức “miễn phí” trên mạng trước đã.
Công nghệ phản động mới sẽ tạo một cuộc cách mạng tận cùng gốc rễ của truyền thống. Tham gia cuộc cách mạng này là bảo đảm cho chính bạn và gia đình một vị trí vững chắc trong xã hội.Cứ hỏi các thế lực phản động 70 năm về trước khi họ vào rừng để bắt đầu sự nghiệp. Một khác biệt: cuộc cách mạng này sẽ diễn ra nhanh chóng hơn, tại những thành thị đã phát triển…và sẽ không đổ máu.
Và luôn nhớ rằng, “những cuộc cách mạng lớn mạnh nhất bắt đầu rất nhẹ nhàng, ẩn che trong bóng tối” (The greatest and most powerful revolutions often start very quietly, hidden in the shadows – Richelle Mead)
Alan Phan

Sửa bởi pth77: 16/07/2014 - 02:32


Thanked by 2 Members:

#113

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 16/07/2014 - 02:56

Tản mạn về triết lý đời thường
Trường Giang - Báo Sức khỏe và Đời sống
07:44' PM - Thứ ba, 15/07/2014

Xin đừng ai nghĩ rằng con người bình thường chỉ biết sống theo thói quen, chỉ biết chống đỡ bị động mọi khó khăn cản trở để tồn tại. Không, nghìn lần không; con người dẫu thấp kém đến mấy vẫn có những suy nghĩ, thậm chí vẫn có những chính kiến, thiên hướng sống rõ ràng.
Họ còn có cả những ước mơ; con người càng thiếu thốn, gian khổ, càng thèm muốn một cuộc sống đầy đủ, thảnh thơi. Chỉ có điều triết lý sống của họ là không ảo tưởng, không đeo đuổi điên cuồng những cái ngoài tầm tay mà họ vẫn thường sống với những gì đang có và hành động theo cung cách có thể kiểm soát được kết quả cuối cùng.

Họ hiểu, ham muốn bao giờ cũng cao hơn khả năng và mọi sự trốn tránh thử thách, lười nhác là cửa ngõ của thế giới ăn m*y, là nghèo túng, đói rách. Kiên trì nhẫn nại là đức tính bản chất của người lao động chân chính dù nó chứa đầy cay đắng nhưng kết quả thường là ngọt ngào, dễ chịu. Nản lòng là sụp đổ, là cái chết của tâm hồn, là đánh mất tất cả.

Họ vẫn thường xác định, phải làm nhiều hơn nói, không nói hay làm dở, không tự phỉnh nịnh mình. Thành công một việc gì bao giờ cũng là niềm vui, là nguồn khích lệ lớn nhưng họ không say, không ngủ quên trên chiến thắng, họ biết rằng một bông hoa chưa phải là vòng nguyệt quế, một con chim én chưa thể tạo được mùa xuân mà quãng đường chông gai vẫn trải dài phía trước.

Họ luôn nhắc nhở nhau phải ra sức học tập rút kinh nghiệm sống. Học trong sách, học trong cuộc đời, rút kinh nghiệm của bản thân, rút kinh nghiệm của những người khác. Một đời người là một pho sách lớn; ngay cả những cuốn sách dở cũng có thể cho ta rút ra những điều bổ ích. Trên con đường trau dồi năng lực sống và lao động, không tiến có nghĩa là lùi. Cuộc hành trình của cộng đồng cũng như thời gian không bao giờ dừng lại hoặc quay lui. Ai đó nghỉ ngơi xả láng hay chậm chạp sẽ bị cuộc sống vượt qua một cách lạnh lùng; sẽ kém cỏi tụt hậu là điều chắc chắn.

Học hỏi không có nghĩa là rập khuôn, là bắt chước máy móc. Thành ngữ phương Đông có câu: "Không giống người khác, không lặp lại mình là đã biến đổi tích cực". Sáng tạo bao giờ cũng là tiêu chí của mọi yêu cầu phát triển. Cái mới bao giờ cũng là nhân lõi của sự biến đổi đi lên. Thói quen cũ kỹ, lối mòn muôn thuở, là kẻ thù vạn kiếp trong sự tiến hóa của loài người. Trong quá trình sống, kể cả lúc khả năng vật chất dồi dào, họ rất tiết kiệm. Họ hiểu, sống tiết kiệm mới dễ dàng giữ được thanh liêm, trong sạch. Tiết kiệm cùng với siêng năng, sáng tạo là ba người bạn giàu có. Sự giàu có bền vững thường không tách rời cung cách chi tiêu có kế hoạch. Giàu có chưa hẳn là đẹp, mà cái đẹp nằm trong văn hóa làm giàu và văn hóa tiêu tiền.

Trong các mối quan hệ sống, khó tránh khỏi điều này, tiếng nọ. Nhưng người lao động thường không hay phức tạp hóa những vấn đề đơn giản và cũng ít khi họ đơn giản hóa những vấn đề phức tạp, đã từng gây cho họ bao khốn đốn. Họ vốn tiếp nhận và xử lý vấn đề bằng trực cảm nhưng không phải trí óc của họ hoàn toàn nghỉ ngơi. Họ vẫn sống bằng lý trí, cụ thể là họ thường nhắc nhau sống gương mẫu; trong việc giáo dục con cái, rất cần có lời lẽ dạy bảo, nhưng gương mẫu bao giờ cũng có tác dụng tốt hơn. Cuộc đời đẹp đẽ của những người làm cha làm mẹ, làm anh làm chị bao giờ cũng là bài học sống động nhất, có tác dụng định hướng, điều chỉnh mạnh mẽ nhất cho trẻ trong quá trình phấn đấu làm người lớn thực thụ. Trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình, họ biết tiến hành song song với sự kiềm chế ham muốn, tham vọng.

Trong mỗi con người, ai cũng có một vầng trăng và một mảng tối. Mảng tối là sự phản ánh mặt trái của xã hội, là sự chứa đựng những tính xấu, những khía cạnh tiêu cực của một cá thể. Mảng tối đó có khi trỗi dậy mạnh mẽ, có sức tàn phá ghê gớm. Thành ngữ ta có câu: "Mọi chiến thắng lớn nhỏ đều phải bắt đầu chiến thắng từ bản thân mình". Những người có lý tưởng bao giờ cũng biết cách vượt chính mình. Họ biết tính ích kỷ là nguồn gốc của mọi tội ác và xóa bỏ được nguồn gốc đó thì con người sẽ thanh thản tiếp cận với lẽ phải, với đạo lý.

Muốn chiến thắng bản thân, muốn vượt chính mình, con người phải dũng cảm. Đức tính dũng cảm rất cần trong cuộc sống thường nhật, nhất là khi gặp những tình huống éo le, đầy thử thách. Song dũng cảm mà không có trí khôn thì cũng chẳng khác gì con ngựa mù. Trí khôn đưa con người đi tới, dẫn con người đến bến bờ vinh quang. Song trí khôn cũng dễ làm cho con người kiêu căng, tự đắc. Thành ngữ dân gian lại cho ta thấy chính sự kiêu căng đó là mặt ng* d*t của một trí khôn chưa hoàn thiện, của cái vốn hiểu biết nửa vời, người kiêu căng chưa hẳn là người giỏi. Trên con đường tiếp cận chân lý, sự hiểu biết của con người quả thật là ít ỏi, nghèo nàn. Con người có khiêm tốn thì cánh cửa chân lý mới mở, bước đường đi tới mới nhanh. Song, khiêm tốn phải thực lòng, nó phải thể hiện nhận thức đúng về sự hạn chế của mình. Khiêm tốn quá mức hoặc khiêm tốn giả vờ còn tệ hơn cả mọi kiểu kiêu căng.

Trong cuộc sống, con người có quyền hoài nghi, nhưng hoài nghi để nâng cao trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu, để nhanh chóng tìm ra sự thật mà củng cố niềm tin. Hoài nghi để rồi đi đến tin tưởng thực sự. Đừng dễ dàng tin để rồi dễ dàng hoài nghi, vứt bỏ niềm tin. Nhưng cái gì cũng hoài nghi như một phong cách sống đã chết lòng tin thì sẽ không bao giờ đến được với chân lý; đó là sự ng* d*t.

Trong tình yêu, người lao động cũng sống hết mình nhưng tỉnh táo và thực tế. Họ quan niệm tình yêu là sự rung cảm hòa hợp của hai tâm hồn, hai trái tim. Đó là nói chung, còn đối với từng người, quan niệm về tình yêu thường có những sắc thái riêng. Người yêu đương suôn sẻ thì cho tình yêu là đóa hoa tươi, ngát hương vĩnh cửu, là niềm vui bất tận, là động lực mạnh mẽ, thường xuyên trong lao động và công tác. Người gặp nhiều trắc trở trong cảnh tình yêu tan vỡ thì quan niệm tình yêu là vị đắng, là vực thẳm, là sự tàn phá cuộc sống bình yên, là ngọn lửa thiêu đốt sự nghiệp…Trong tình yêu, hành khất và vương giả đều như nhau. Đã bước vào tình yêu thì ai cũng vậy, đều bộc lộ lòng mình, đều có những cử chỉ âu yếm, thiết tha…Những người đang yêu thường có những cử chỉ xốn xang, khó tả và khó giấu. Họ cảm thấy cuộc đời đẹp, lạc quan, phấn chấn; họ sẵn sàng vượt qua mọi thử thách để đi tới được bến bờ.

Những người lao động thường sống thủy chung, say đắm một mối tình và đã yêu thì bao giờ cũng nghĩ tới hôn nhân. Những người sống cùng một lúc với nhiều mối tình thì thực chất là chưa có mối tình nào thực sự trong lòng. Như thế là đang sống nghèo chứ chưa phải là sống giàu. Đã yêu thực lòng, yêu sâu sắc thì họ bất chấp mọi ngăn cách. Tình yêu không có tuổi, không biên giới, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị. Trong tình yêu chân chính không có phép so sánh. Đã so sánh với người này người khác, tính toán nhỏ nhen là chưa phải đã yêu. Song người đời cũng nhận rõ một điều, trong tình yêu cũng có phần tiêu cực mà nam hay nữ đều phải cảnh giác mới là mốt, là nét tâm lý khá phổ biến, nhất là lớp thanh niên, trung niên nam nữ ở thành thị. Tình yêu có khi làm cho con người trở nên mù quáng. Tình yêu xuất hiện là lý lẽ im bặt; sự công bằng, hợp lý, hợp lẽ phải không còn là tiêu chí quan trọng nữa.

Trong lĩnh vực đối nhân xử thế, người lao động rất chú ý giữ gìn đạo lý. Họ không có thái độ được cá quên nơm, mưa tạnh quên nón, học xong quên thầy, hết bệnh quên lương y. Họ coi thái độ vong ân còn tệ hơn cả phản bội. Một thành ngữ dân gian cần được người đời suy ngẫm: “làm ơn thì không nên nhớ, nhưng nhận ơn thì không được quên”. Đối với người thân, thái độ họ nhất quán trước sau như một. Họ khinh bỉ, phỉ báng những kẻ “hôm trước thì chị chị em em, hôm sau thì như chó với mèo”, “thay đổi ghế, thay đổi tính cách”, “sống mang nặng tư tưởng cơ hội”.

Người lao động chân chính bao giờ cũng sống trung thực, thật thà. Họ coi gian dối là kẻ thù bẩn thỉu. Trong những cuộc thi đấu, thi cử, tranh chấp lành mạnh, họ thà thất bại trong sạch còn hơn thắng lợi man trá. Khi mắc sai lầm, phạm tội lỗi, họ thành khẩn tự kiểm điểm, tiếp thu phê bình, nhận hình phạt. Tự giác nhận lỗi không hề là một sự nhục nhã. Thật đáng hổ thẹn cho những kẻ không biết hổ thẹn. Thành ngữ phương Đông có câu: “mắc sai lầm là không tốt, cứ nhơn nhơn càng tồi tệ”. Chính những người biết hối hận là những người luôn biết xây dựng cuộc đời mới đẹp đẽ hơn, luôn biết phủ định mình để rèn luyện bản lĩnh khẳng định mình. Họ nhìn nhận nhau rất công bằng; đánh giá một vấn đề bao giờ cũng căn cứ chính vào hành động và hiệu quả; lời lẽ cùng những sự tranh cãi chỉ là điều tham khảo.

Những người lao động hiểu biết thường sống rất tâm lý, họ hiểu bạn bè, người thân và đồng nghiệp của mình; không suy bụng ta ra bụng người, không bằng vào bụng mình đang no mà khẳng định không ai đói. Khi gặp khốn khó họ thường giúp đỡ, đùm bọc nhau. Một miếng khi đói bằng cả gói khi no. Lúc gian nan thử thách mới rõ ai là bạn hiền. Họ giúp nhau vượt qua khúc bần hàn và hơn thế, họ giúp nhau căn bản hơn là cách sống, cách kiếm tiền. Thành ngữ ta đã có câu: “Cho vàng không bằng chỉ đàng làm ăn”. Họ biết nói, nói đến đầu đến đuôi khi thấy cần nói, song khi cần thiết không nên nói, họ im lặng, giữ kín.

Trong cuộc sống, những người lao động biết tận dụng mọi cơ hội để hành động dấn tới song họ cũng biết dừng lại bên bờ vực, bên vạch ranh giới của quyền tự do. Trong lĩnh vực trau dồi và phát triển tài năng, họ cũng có những suy nghĩ rất thực tế. Họ quan niệm tài năng không phải do trời phú, không phải do tạo hóa cho không mà chủ yếu do dày công khổ luyện; năng khiếu và trí thông minh chỉ quyết định một phần. Họ hiểu sống trong thời đại văn minh này là phải có trí tuệ. Do đó mà phong trào tự học, học tại chức, học theo phương thức giáo dục từ xa, học theo sự hướng dẫn của đài truyền thanh, của vô tuyến truyền hình, học trong sách báo của cán bộ viên chức, công nhân, nông dân… ngày càng sôi động. Vì vậy, mặt bằng dân trí của ta ngày nay cao hơn rất nhiều.

Trong quá trình trau dồi tài năng, những người khôn ngoan nhận ra một điều rằng, biết ít mà đúng còn hơn biết nhiều những điều vu vơ. Khi có ai nói là tôi đã biết tất cả thì ta có thể khẳng định người đó không biết được điều gì sâu sắc, đầy đủ. Kho tàng tri thức của nhân loại là vô hạn, mênh mông như biển cả, còn nhận thức của mỗi con người thì rất hạn chế, ví như một giọt nước. Có người đã nói: “Trong tình hình khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay thì ai không đổi mới nhận thức coi như mù chữ. Ai lười tư duy là đã từ chối trí tuệ. Ai biết phát hiện ra mình còn dốt thì mới có cơ tiếp cận được chân lý. Ai có khát vọng, có ý chí thì mới có thể vươn tới tài năng”. Song cũng phải biết rằng, bản thân tài năng chưa có ánh hào quang, nếu chỉ đấy ngắm nghía, mà chỉ khi vận dụng được vào thực tế mới bừng tia chớp, mới có ánh sáng lan tỏa. Mặt khác, cũng phải xác định nghiêm túc, có tài năng là để lao động và công tác hiệu quả hơn, để tạo ra nhiều tài năng khác cho đất nước chứ không phải để nhìn đời một mắt, khinh rẻ người kém tài năng, coi thường những người không bằng mình.

Để khép lại bài viết tản mạn về những triết lý đời thường này, tôi xin phép nhắc lại một câu thành ngữ phương Đông có ý nghĩa tổng quát: Lẽ đời của con người là biết nghe phải, nói phải, làm phải.

Một Mùa Xuân Nho Nhỏ
Sáng tác: Trần Hoàn
Thơ: Thanh Hải
Thể hiện: Hồ Bích Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mọc giữa dòng sông xanh một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi tôi đưa tay hứng về
Mùa xuân người cầm súng lộc giắc đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng trải dài nương lúa
Đất nước bốn nghìn năm vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao vững vàng phía trước
Ta làm con chim hót ta làm một nhành hoa
Một nốt trầm xao xuyến ta biến trong hoà ca
Mùa xuân mùa xuân một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời
Mùa xuân , mùa xuân mùa xuân tôi xin hát Nam Ai , Nam Bằng
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình đất Huế nhịp phách tiền mùa xuân ...
Em Ơi Mùa Xuân Đến Rồi Đó
Sáng tác: Trần Chung
Thể hiện: Hồ Bích Ngọc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Em ơi mùa xuân đến rồi đó
Thắm đỏ ngàn hoa khát mặt trời
Nghe không gian mênh mang trong lời ca yêu thương đến với muôn người, đến với muôn đời
Xuân ước vọng ngàn năm lại tới
Nghe lòng vui phơi phới
Kìa em nắng đã lên rồi mừng xuân hát lên thôi
Nghe em mùa xuân nói gì đó
Xúc động lòng ta trước cuộc đời
Qua bao nhiêu đau thương thêm mùa vui theo chim én đã bay về ríu rít ngang trời
Chim hát chào bàn tay dựng xây trên tầng cao có thấy
Mùa xuân náo nức công trường đồng lúa mới dâng hương
Em ơi mùa xuân mới gọi đó
Tiếng gọi tình yêu mới hiền hoà
Ôi xuân tươi bao la đang giục ta đi mau tới những chân trời đất mới đón người
Xây đắp ngàn mùa sau hạnh phúc trên đường ta đi tới
Này em hãy hát lên cùng mùa xuân mới xinh tươi
Em ơi mùa xuân đến rồi đó giang rộng vòng tay đón cuộc đời ....
Lắng nghe mùa xuân về
Sáng tác: Dương Thụ
Trình bày: Thanh Lam

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giọt mưa nào rơi thật êm trên phố phường
Mùa hương nào thơm thật thơm trong gió thoảng
Và em đợi anh đợi anh như đã hẹn
Nghe trong mưa đêm mùa xuân lặng lẽ sang.
Phải chăng mầm non mùa xuân đang hé nở
Phải chăng nụ hoa mùa xuân đang hé nở
Phải chăng ngày xuân đầu tiên đang gõ cửa
Khi anh trông em ung dung bên thềm nhà.
Kìa tiếng chim rộn hót xa vời,
Cánh hoa đào bỗng như cười, báo tin mùa xuân về
Kìa bóng đêm mùa cũ đâu rồi,
Với em chỉ thấy xanh ngời, lá hoa của xuân tươi, rồi anh tới..
Giọt mưa nào rơi thật êm trên phố phường
Mùa hương nào thơm thật thơm trong gió thoảng
Và em đợi anh đợi anh như đã hẹn
Nghe trong mưa đêm mùa xuân lặng lẽ sang.
Phải chăng mầm non mùa xuân đang hé nở
Phải chăng nụ hoa mùa xuân đang hé nở
Phải chăng ngày xuân đầu tiên đang gõ cửa
Khi anh trông em ung dung bên thềm nhà.
Và chúng ta lại đón giao thừa,
Phút giây lặng lẽ mong chờ, lắng nghe mùa xuân về
Để biết ta còn mãi trong đời,
Phút mong chờ ấy tuyệt vời, chứa chan niềm tin yêu, kìa anh tới.
Điệp Khúc Mùa Xuân
Nhạc sĩ: Quốc Dũng
Thể hiện: Tam Ca Áo Trắng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Gió hắt hiu lung linh hoa vàng
Chở tia nắng về trong ánh mùa sang
Gió mãi mơn man trên đóa môi hồng
người em yêu tìm quên trong cuộc sống
Bướm vẫn tung tăng bay la đà,
Mặt trời mây buồn nhẹ trôi thiết tha
Ánh mắt mơ trông nơi xa vời
Chở mùa Xuân đến đem nguồn vui
Rừng Xuân ơi xin lặng gió heo may
Để chim muông quay về với muôn cây
Tình Xuân ơi xin dệt mối yêu thương
từ bao nhiêu năm tình sầu muôn hướng
Này gió hãy cuốn từng lá rơi
và nắng hãy chiếu màu thắm tươi
cùng những tiếng hát điệu nhạc
dâng chơi vơi dìu hồn ta say trong viễn khơi
Nguồn: Báo Sức khỏe và Đời sống

ps: 1 cmt
Nói thêm...
Thứ tư, 11/02/2009 11:53' AM - Nguyễn Đình Hoàng princenguyen@...
Em quá vẻ hơi điên khi đọc triết học. Đọc triết mà người thấy lâng lâng. Đọc thêm những suy nghĩ của Albert Einstein nữa. Hiểu được triết và Einstein (đặc biệt về tự do, nhận thức, đạo đức, lí tính, cảm tính,...).

Những gì tác giả vừa nhận xét ở trên về mỗi loại người ở trên có vẻ quá xa lạ đối với em. Chắc bởi em chưa tiếp xúc nhiều, và chỉ hay giao thiệp với "thế hệ 9x". Thì em thấy là, gần như mọi người đều chả biết thế nào là triết lý. Có biết cũng chỉ "nói", mà nói thì mấy ai hiểu. Nghe từng lời nói đời thường có mấy ai hiểu. Đó là tâm lý đám đông. Chưa ai thực sự độc lập để hiểu gì đó...

Em đã có thể độc lập suy nghĩ để bắt lỗi nhận thức của từng người "kể cả người lớn tuổi". Nhưng sự độc lập này cũng đồng thời với độc lập nhiều thứ khác. Nó gần như là 1 dạng của cô đơn.

Tác giả có đoạn:

"Trong quá trình trau dồi tài năng, những người khôn ngoan nhận ra một điều rằng, biết ít mà đúng còn hơn biết nhiều những điều vu vơ. Khi có ai nói là tôi đã biết tất cả thì ta có thể khẳng định người đó không biết được điều gì sâu sắc, đầy đủ. Kho tàng tri thức của nhân loại là vô hạn, mênh mông như biển cả, còn nhận thức của mỗi con người thì rất hạn chế, ví như một giọt nước. Có người đã nói: “Trong tình hình khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay thì ai không đổi mới nhận thức coi như mù chữ. Ai lười tư duy là đã từ chối trí tuệ. Ai biết phát hiện ra mình còn dốt thì mới có cơ tiếp cận được chân lý. Ai có khát vọng, có ý chí thì mới có thể vươn tới tài năng”."

Em cho rằng điều "biết ít còn hơn nhiều" là hoàn toàn sai. Bởi lẽ, Einstein đã nói, con người không chỉ hành động theo kích thích của ngoại cảnh mà còn nhờ vào đòi hỏi nội tâm. Việc "biết ít còn hơn nhiều" liệu có phải triết lý ? Xin thưa là không hề. Nếu là em, em sẽ biết tất cả, hòa nhập vào tất cả để thấu hiểu, kể cả sai - đây là góc nhìn thứ nhất... Và em sẽ đứng trên mặt này để nhận xét các mặt khác - đây là góc nhìn thứ 2. Cuối cùng là em sẽ dựa vào góc nhìn của chính em, của chính tính cách hiện tại, của những gì em thấu hiểu.

Những cái em đã đưa ra ở trên là phủ định sư tự cho phép sự hạn chế nhận thức. Decaetes có 3 góc nhìn thấu hiểu của trí tuệ con người. Einstein đã tách biệt mình khỏi những giáo điều, những ràng buộc để đi tới những ý tưởng sáng tạo đột phá và rút ra nhiều triết lý về sự tự do, giáo dục, chính trị, xã hội... Có thể nếu chưa biết những thứ này, thì "biết ít tốt còn hơn nhiều" là chìa khóa cuộc sống. Nhưng với sự hiểu biết bây giờ, thì nó chỉ làm con người thêm ràng buộc vào số phận, vào giáo điều, và những thứ mà họ phải phục tùng theo tâm lý số đông...

Nếu ai đã ngẫm "Cuộc cách mạng tâm lý Gnosis" thì mới thấy sự hiểu biết mới là cứu cánh của con người. Nếu người ta biết nhiều, biết cái xấu mà hôk bị nó làm vấy bẩn, mới đạt tới ngưỡng tối cao của triết lý đời thường...

Thanked by 3 Members:

#114

hongtiem



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

 

Gửi vào 16/07/2014 - 16:54

PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ THÁI ĐỘ CỦA KẺ SĨ TRƯỚC THỜI CUỘC

-HOÀNG QUỐC HẢI

Sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam” do học giả Ngô Đức Thọ chủ biên, mục 1503 trang 481 có ghi: “Phùng Khắc Khoan (1528-1613) người xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, nay là thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
53 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Quang hưng 3 (1580) đời Lê Thế tông. Hai lần đi sứ đều được nhà Minh tôn kính, không xưng tên. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Mai quận công. Thọ 86 tuổi. Khi mất, được tặng Thái tể, phong phúc thần.
Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng phu, hiệu Nghị Trai, tác phẩm có Mai Lĩnh sứ, Hoa thi tập, Ngôn chí thi tập”.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, phần “Nhân vật chí” về Phùng Khắc Khoan tác giả đánh giá:
“… Lúc trẻ đã nổi tiếng văn học, theo học trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Lại, kiêm thông cả thuật số. Nhưng chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc. Đầu đời Trung tông theo Lê Bá Ly qui thuận nhà Lê… Thái sư Trịnh Kiểm mới gặp ông, biết là người có học thức, mưu lược, cho tham dự việc trong màn trướng, trao chức ký lục ở hỗ ngự dinh, coi quân bốn vệ… Ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, có các thi tập truyền ở đời”. (Lịch triều hiến chương loại chí tập I trang 260-261)
Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Toàn Việt thi lục” có nhận xét về Phùng Khắc Khoan như sau: “Khoan là người cương nghị tinh minh, văn võ toàn tài”.
Trên đây là lời lẽ của các học giả hàng đầu của nước ta sinh sau cụ Phùng Khắc Khoan trên dưới hai trăm năm.
Lại như người cùng thời với cụ Phùng Khắc Khoan, đó là cụ Đỗ Uông đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (bảng nhãn) đời Mạc Phúc Nguyên (1556) làm quan tới chức Lai bộ thượng thư, Đông các đại học sĩ, Thiếu bảo, Thông quận công cũng có những lời ưu ái về cụ Phùng.
Thật ra người cùng thời với nhau, lại ngang tài, ngang sức nhau mà thừa nhận nhau là việc khá hiếm. Ắt Phùng Khắc Khoan phải là bậc bạt quần thì Đỗ Uông mới có nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là một bậc hào kiệt có tài cao, khoa giáp nổi tiếng, đạo cao đức trọng, nhân hậu trung nghĩa; đủ để giúp nước bình trị, vỗ yên dân chúng, lòng ông rộng mở. Khí độ hiên ngang đủ sức xoay trời chuyển đất, thao túng vũ trụ”.
Các bậc tiền nhân đã trân trọng họ Phùng đến như vậy, thử hỏi lũ hậu sinh chúng ta biết nói gì về cụ đây. Hơn nữa, suốt 400 năm qua, từ khi Phùng Khắc Khoan viên tịch (1613) đã có biết bao t*o nhân mặc khách, biết bao các học giả trước thuật về cụ.
Người ta đã viết nhiều về Phùng Khắc Khoan từ việc tu thân, việc chọn hướng đi, việc thi triển tài năng, cả đến khí phách trượng phu, lòng nhân ái và thơ văn mẫn tiệp, tưởng không còn thiếu điều gì về nhân vật lỗi lạc này không được các học giả đề cập đến.
Tuy nhiên, nếu ta thành tâm, kính cẩn suy ngẫm về sự nghiệp lớn lao, tài năng trác việt, nhân cách cao thượng của Phùng Khắc Khoan, chắc cũng có thể khe được đôi nét để viết về cụ. Ấy là thái độ của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Ta biết, khi Phùng Khắc Khoan cất tiếng khóc chào đời (1528), thì Mạc Đăng Dung đã lấy ngôi nước từ nhà Lê một năm trước đó (1257).
Tuổi niên thiếu và tuổi thanh niên của Phùng Khắc Khoan gắn liền với quê hương Phùng Xá, đến 16 tuổi thì sang Hải Dương (huyện Vĩnh Lại) học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Lúc này đang là thịnh thời của nhà Mạc. Nhà Mạc lấy ngôi nước từ nhà Lê và đóng đô ở Thăng Long 65 năm (1527-1592) liên tục.
Không thể phủ nhận nhà Mạc đã làm được khá nhiều công việc, kể cả việc đào tạo nhân tài và tạo ra một nền văn hóa mang dấu ấn Mạc khá đậm.
Nhà Lê khởi thì Lê Lợi với công việc đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, một kẻ thù tàn bạo và hiểm độc chưa từng thấy trong lịch sử cổ kim, ròng rã suốt 10 năm. Đến đời Lê Thánh tông là triều đại sáng giá nhất và cũng là thời cực thịnh của nhà Lê. Nhưng ông vừa mất khoảng hơn chục năm sau thì các cháu của ông là Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã trở thành những tên bạo chúa, đời gọi Uy Mục là vua quỉ, Tương Dực là vua lợn. Công việc triều chính đổ nát. Dân tình cực khổ, loạn lạc tứ tung. Và đến năm 1527, tức là đúng 100 năm sau khi Lê Lợi lên ngôi, thì nhà Lê mất về tay nhà Mạc. Lại tới năm 1533 công cuộc trung hưng cho nhà Lê được khởi từ Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim, dò tìm con cháu nhà Lê đưa sang đất Ai Lao tôn lập, mở ra thời kỳ tranh đấu Lê - Mạc.
Sự nghiệp Trung hưng sau về tay Trịnh Kiểm, thu phục được nhiều kẻ sĩ và anh tài giúp rập. Kể cả các bậc tể thần và sĩ phu bỏ nhà Mạc về với nhà Lê. Thật ra tình thế nước ta vào thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực nếu Mạc Đăng Dung không lấy ngôi nước, hẳn cũng có một đầu lĩnh hoặc một tay anh kiệt nào khác thay thế.
Thời thế ấy, kẻ sĩ phù Mạc hoặc phù Lê cũng chẳng hơn gì. Bởi cái hào quang của Lê Thái Tổ đuổi giặc Minh và tạo cho thế nước giầu thịnh của Lê Thánh Tông, đã bị con cháu làm cho tiêu vong, khiến trăm họ oán giận, đời gọi họ là “Vua quỉ”, “Vua lợn”.
Sinh ra và lớn lên trong vùng đất Mạc, tại sao Phùng Khắc Khoan không phù Mạc? Vả lại nhà Mạc lúc đó đủ đất cho ông vẫy vùng thi thố. Rất nhiều các tài năng lỗi lạc thành đạt qua khoa cử, ra làm quan để lại tiếng tăm trong lịch sử như các ông Nguyễn Thiến người xã Canh Hoạch, Tả Thanh Oai (Hà Tây cũ), ông đỗ Hội nguyên đệ nhất giáp, đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại chính 3 (1532) đời Mạc Phúc Nguyên (Mạc Đăng Doanh), làm quan tới chức Lại bộ thượng thư, Ngự sử đài, Đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh viên, tước Thư quận công.
Cùng đỗ khoa này với Nguyễn Thiến còn có Bùi Vịnh người xã Định Công huyện, Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Bùi Vịnh đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (bảng nhãn) niên hiệu Đại chính 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh, ông là con của tiến sĩ Bùi Xương Trạch, cố nội tiến sĩ Bùi Bình Quân và là viễn tổ của Bùi Huy Bích.
Bùi Vịnh làm quan tới chức Lại bộ Tả thị lang tước Mai lĩnh hầu.
Ngoài ra còn khà nhiều người đỗ đạt và thành đạt với Nhà mạc như các hoàng giáp, tiến sĩ Bùi Trí Vĩnh, Bùi Bá Chiến, Hoàng Sĩ Khải, Dương Văn An v.v…
Đặc biệt trong số những người làm quan với nhà Mạc có Giáp Hải người xã Dĩnh Kế huyện Phượng Nhãn (Bắc Giang) đồ Đệ nhất giáp đệ nhất danh (Trạng Nguyên) Khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan trải Lục bộ Thượng thư kiêm Đông các, Nhập thị kinh viên, Thái bảo, tước Sách quận công, từng đi sứ nhà Minh ứng đối tỏ ra bậc phách lực, bạt quần khiến người Minh phải nể trọng.
Ồng từng được các vua nhà Mạc tôn trọng, tin dùng. Mặc dù vậy, đến tuổi ông dâng sớ xin về trí sĩ, Mạc Mậu Hợp quyến luyến thuyết phục mời ông ở lại triều. Tới lần thứ ba, thế không giữ được, triều đình buộc phải chấp thuận để ông về hưu, năm ấy ông đã 71 tuổi.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” phần nhân vật chí viết về người phò tá có công lao tài đức, về đời Mạc, Phan Huy Chú chỉ chép có mỗi một người, đó là trạng nguyên Giáp Hải, đủ biết ông là người tài, đức chói ngời.
Lại một lần nữa tôi tự hỏi vì sao cụ Phùng Khắc Khoan bỏ Mạc phù Lê?
Có nhẽ đây là việc lập chí của ông đã được hình thành từ tuổi đội mũ (16 tuổi). Nhất là từ khi ông về học với người thầy kiệt xuất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tư tưởng này ánh lên phần nào trong tập “Ngôn chí” của ông.
Trong “Tự thuật” bốn câu cuối của bài 2, cho ta thấy chí lớn của trang thiếu niên anh tuấn này:
Tùng bách khởi kham hàng tuyết đống
Kình nghê na khẳng luyến sầm đề
Nam minh tằng kiến côn bằng phấn,
Vũ dực siêu thăng vũ Hán Tề.
(Cây tùng công bách đâu chịu hàng phục trước tuyết giá
Cá kình cá nghê đâu chịu lưu luyến vũng nước chân trâu
Bể Nam thường hiện cá côn hóa chim bằng tung cánh
Vỗ cánh bay cao ngang với dòng sông Thiên Hà)
Tuổi thiếu niên, nhưng Phùng Khắc Khoan đã có chí hướng thượng, tựa như tùng bách là loài cây cứng cỏi đương đầu với gió bão và tuyết sương. Hoặc như đám kình, nghê vẫy vùng ngoài biển lớn, hoặc như cái sức của chim bằng tung cánh bay vạn dặm trên trời cao khoáng đãng.
Đúng như Phan Huy Chú nhận xét ông có “chí khí hào mại”. Lời thơ trên cùng hé lộ cho ta thấy trang thiếu niên này không phải người thường, mà có chí khí của một bậc cân quắc.
Vẫn trong phần “Ngôn chí” bài 4, tỏ rõ trong khi còn đang đi học đã có ý thức dọn mình để tích lũy kiến thức, nhằm có cơ hội thi thố thì chưa hẳn đã chịu thua kém Trương Tử Phòng. Tử Phòng tức Trương Lương, nổi tiếng là bậc cao sĩ, mưu thuật vào bậc nhất cổ kim trong lịch sử Trung Hoa, từng giúp Hán Cao tổ đánh bại Sở Bá vương lập ra nhà Hán.
Cứ theo ngôn chí thì rõ ràng Phùng Khắc Khoan có chí kinh bang tế thế. Và khi ông vào tuổi tráng niên thì trạng nguyên Giáp Hải đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Với tài năng và nhân cách của Giáp Hải thì cả đương thời và hậu thế đều tôn trọng, đều kính trọng. Vậy sao Giáp Hải lại không có thể là tấm gương cho chàng thanh niên Phùng Khắc Khoan noi theo?
Trả lời được câu hỏi này, mới có thể giải mã được vì sao Phùng Khắc Khoan bỏ Mạc, phù Lê.
Ta biết Khổng học dạy kẻ sĩ lập thân làm trọng, lập danh làm trọng, nước loạn thì tàng (tức đi ở ẩn), nước thịnh thì xuất (tức đem tài năng, trí tuệ ra phục vụ kẻ giữ ngôi nước).
Tựu trung Khổng giáo dạy đám nho sĩ vị kỷ hơn là vị nhân. Và người Trung Hoa có truyền thống: “Non sông tận cựu thù bất tận”. Tức là nước có thể mất chứ thù cũ không thể quên. Vì vậy họ coi trọng thân hơn nước.
Người Việt Nam du nhập Khổng giáo làm trợ thủ cho đường lối chính trị của nhà cầm quyền, nhưng kẻ sĩ Việt Nam có cách hành xử khác hẳn.
Kẻ sĩ Việt Nam trước hết lấy nước làm trọng, tức quốc gia dân tộc làm trọng. Kẻ sĩ Việt Nam nếu đạt tầm quốc sĩ, đều lấy quốc sỉ làm trọng, tức danh dự quốc gia phải đặt lên hàng đầu.
Ta nhớ năm 1285, giặc Nguyên với thế thượng phong tràn vào xâm lược nước ta, trong trận cản giặc để triều đình rút chạy trước cửa Hàm Tử, tướng Trần Bình Trọng bị giặc Nguyên bắt. Tướng giặc Thoát Hoan dụ hàng. Nếu ưng thuận sẽ cho về làm vương bên Bắc quốc. Trần Bình Trọng khẳng khái mắng giặc: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Trần Bình Trọng bị giặc chém đầu, nhưng khí tiết trượng phu của kẻ sĩ, quyết đem tính mệnh của mình để giữ gìn quốc thể của ông, lại trở nên bất tử. Cũng trong thời gian đó, nhà Trần cử hai ông Nguyễn Đức Dư, Nguyễn Đức Hàn vào trại Thoát Hoan để thương thảo.
Thoát Hoan bực giận cho tới lúc ấy các vua nhà Trần vẫn chưa tới hàng, lại còn sai sứ thương thảo. Y lớn tiếng quát thét: “Sứ, sứ gì các ngươi! Sứ chó!”. Hai ông bình tĩnh độp lại: “Vậy thời chúng ta đang đi sứ nước chó sao?”. Đương nhiên là giặc giết các ông. Nhưng các ông thà chết chứ không để cho giặc làm nhục quốc thể. Những tấm gương đó diễn ra chưa xa lắm.
Đối chiếu lịch sử với những gì đã xảy ra qua cách hành xử của Mạc Đăng Dung, ông vua khởi nghiệp của nhà Mạc với mấy viên quan tỉnh Quảng Tây trước cửa ải Nam quan, vẫn còn là mối quốc nhục. Việc xảy ra mới chỉ hơn chục năm, người đương thời và kẻ sĩ chắc còn giữ nguyên mối hận. Và sự đàm tiếu về hình ảnh ông vua nhà Mạc (Mạc Đăng Dung) dẫn theo một đám quần thần cởi trần và tự trói mình, quì trước mặt một lũ quan lại nhà Minh sao chẳng đến tai Phùng Khắc Khoan. Vả lại nhà Minh với thời của Minh Thế tông lúc ấy, đâu phải là một nhà nước mạnh. Sự thực nó đã ruỗng mục và thối nát đến tận xương tủy, vua thì mê muội, việc triều chính bỏ bê, dân tình oán giận. Thế mà nhà Mạc lại tỏ ra hèn yếu, bợ đỡ đến ngu muội, không còn gì là quốc sỉ, trước người Minh, khiến dân cả nước phẫn nộ. Là một người mẫn tiệp, sáng suốt và cương quyết như Phùng Khắc Khoan, khi tiếp nhận những thông tin về cách hành xử nhục nhã của Mạc Đăng Dung, chắc chắn ông không thể chấp nhận. Đó hẳn là lý do ông không ra thi với nhà Mạc. Đúng như Phan Huy Chú đã nhận định Phùng Khắc Khoan là người “chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc”. Lại như Lê Qúy Đôn nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là người cương nghị tinh minh”.
Người đã có tư chất hào mại cương nghị, tinh minh, ắt phải lấy cái nhục của nước làm cái nhục của chính mình. Ấy cũng là tư chất của bậc quốc sĩ vậy. Hơn nữa, suốt mấy chục năm thống trị nước ta, tội ác giặc Minh gây ra nhiều như lá rừng, nỗi căm giận vẫn còn chất chứa truyền đời trong lòng mỗi người dân Việt. Cho nên việc làm hèn mạt vô liêm sỉ của kẻ giữ ngôi nước đối với kẻ thù của dân tộc, là sự xúc phạm sâu sắc đối với toàn dân tộc.
Với kẻ xâm lăng hùng mạnh mà ta ở thế yếu, nhất thời nước có thể mất, nhưng rồi ta vẫn có thể đuổi giặc đi, lấy lại nước. Nhưng vì muốn giữ lấy cái ngai vàng, tức là vì quyền lợi cá nhân và dòng tộc, tự hạ mình trước kẻ thù để mối nhục cho nước tới muôn sau thì tội ấy không lấy gì mà chuộc được, không ai có thể biện minh được, không một thế lực nào đủ sức bênh che, và lịch sử cũng không thể tha thứ.
Chính vì cảm nhận sâu sắc về nỗi quốc hận đó mà Phùng Khắc Khoan quyết tâm bỏ Mạc phù Lê. Mấy trăm năm sau khi nghĩ lại mối nhục này, Phan Bội Châu còn gay gắt lên án: “Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy hai châu Thạch Tích, Niêm Lãng và bốn động Cổ Sim, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho người Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân nước, tặng người ngoài, tội ấy đáng chém! Chúng nó lấy lời gì để biện bạch được".
Trong lịch sử mấy trăm năm, đã có một vài người bàn về chuyện Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh là thật hay là ảo. Nhưng chưa có ai dám cả gan bênh cho việc ông ta làm nhục quốc thể.
“Là người cương quyết sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu”(Phan Huy Chú), Phùng Khắc Khoan thấy ngay cái lý của sự việc, nên ông đã chọn con đường quang minh chính đại, ấy là thái độ dứt khoát của kẻ sĩ trước thời cuộc, và đem hết tài trí ra phụng sự cho non sông đất nước.
Nhân cách của ông, tài trí của ông, sự nghiệp văn chương của ông, mặt nào cũng toàn bích. Riêng tôi kính ngưỡng trí sáng suốt của ông trước cuộc bể dâu rối nát, ông đã chọn đúng đường. Ông xứng đáng là bậc đại quốc sĩ, là tấm gương rực sáng cho kẻ sĩ muôn đời chung soi.
Thiết nghĩ, kẻ sĩ thời nay nếu muốn noi gương Trạng Bùng, trước hết phải biết giữ lấy cái sĩ diện cho chính mình và sau là sĩ diện cho nước, cũng tức là GIỮ LẤY CÁI QUỐC SĨ vậy!

Sinh từ mẹ từ cha
Sinh từ trời từ đất
Rường cột trải mấy triều
Mềm mại, cương cường, bất khuất
Mà nôm na đồng áng Kẻ Bùng.

Ngẩng đầu mây trắng Tản Viên Sơn
Cúi nâng phù sa sông Hồng ứa đỏ
Kẻ Nủa kia, sử xanh kia còn đó
Mộ đá ong giản dị nhường này…

Mấy trăm năm xanh cỏ xanh cây
Mây Kẻ Bùng dường bay dường thanh thản.

Cảm hoá kẻ thù ấm tay bầu bạn
Câu thơ đề xuyên mấy trăm năm
Lời thơ dâng bát ngát trăng rằm
Trung Hoa mênh mông, Trung Hoa thán phục.

Phơ tóc trắng vóc mai mình hạc
Mà mấy nghìn dặm đất nhẹ như không
Mà Quốc thể rạng danh con Lạc cháu Hồng
Dân mấy cõi tụng xưng Quan Trạng…

“Vẻ mặt Người nôm na đồng áng
Ta vẫn gặp đâu đây trong thôn xóm Kẻ Bùng”

(ST)

Thanked by 3 Members:

#115

AnhTanh



 

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 65 Bài viết:
  • 74 thanks

 

Gửi vào 16/07/2014 - 17:01

Ðôi mắt
Nam Cao - 1948

Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo ti :
- Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.
- Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.
Tôi vỗ vai anh bảo vậy. Tôi toan vào. Anh vội ngăn tôi lại :
- Khoan đã. Anh để em gọi cho anh trong nhà xích con chó lại. Con chó to và dữ lắm.
Tôi mở to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ đến những lần đến chơi nhà anh Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải chờ anh Hoàng thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó tây to bằng con bê, dúi đầu nó vào gầm cái cầu thang, rồi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó để vào phòng khách.
Tôi rất sợ con chó giống Ðức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình thấy nhẹ cả người. Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình. Không phải vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn. Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tôi đến nơi chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu, con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập phố phường. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay vì hút phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó.
Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị !... Tôi cười nho nhỏ. Chẳng biết tôi cười gì, anh thanh niên cũng nhe răng ra cười. Ðáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng mảnh quét trên sân gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám, chạy ra. Một đôi mắt đen lay láy nhìn tôi...
- Bác Ðộ, ba ơi ! Bác Ðộ !...
Thằng Ngữ, con anh Hoàng. Nó chẳng kịp chào tôi, ngoắt chạy trở vào, reo rối rít.
- Cái gì ? Cái gì ? Hừm !
Tiếng trầm trầm nhưng lại có vẻ nạt nộ của anh Hoàng hỏi nó. (Bao giờ nói với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm doạ buồn cười ấy). Thằng bé líu ríu những gì tôi nghe không rõ. Rồi thấy tiếng thanh thanh của chị Hoàng giục con :
- Ngữ xích con chó lại. Xích con chó lại cái cột tít đằng kia.
Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả, bởi vì người khí béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh khệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững chạc và hơi bệ vệ. Bây giờ nó lộ ra khá rõ ràng trong bộ áo ngũ màu xanh nhạt, phủ một cái áo len trắng nó nịt người anh đến nỗi không còn thở được.
Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. Tôi có thì giờ nhận rõ một sự thay đổi trên bộ mặt đầy đặn của anh : trên mép một cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ.
Sửng người ra một lúc, rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng :
- ối giời ơi ! Anh ! Quý hoá quá !
Anh quay lại :
- Mình ơi ! Anh Ðộ thật. Xa thế mà anh ấy cũng chịu khó đến thăm chúng mình.
Chị Hoàng lúc bấy giờ đã chạy ra, tay còn đang cài nốt khuy chiếc áo dài màu gạch vừa mới mặc vội vào để ra đón khách. Người đàn bà vồn vã :
- Mong bác mãi. Lúc thằng cháu mới chạy vào, nhà tôi cứ tưởng nó trông nhầm. Cứ tưởng bác ở cách hàng mười lăm hai mươi cây số...
Bắt tay tôi xong, anh Hoàng dịu dàng đẩy tôi đi trước. Chị vợ đã nhanh nhẹn chạy trước vào nhà, dọn bàn dọn ghế. Sao lại có sự săn đón cảm động như thế được ? Tôi đâm ngờ những ý nghĩ không tốt của tôi về anh, từ hồi Tổng khởi nghĩa trở đi. Sau Tổng khởi nghĩa, anh Hoàng đối với tôi đột nhiên nhạt hẳn đi. Mấy lần tôi đến chơi với anh, định để xem anh thay đổi thế nào trong cuộc thay đổi lớn của dân tộc chúng ta, nhưng đều không gặp anh. Cửa nhà anh đóng luôn luôn. Thằng nhỏ nhà anh đứng bên trong cái cửa nhìn qua một lỗ con, bao giờ cũng hỏi cặn kẽ tên tôi, để một lúc sau ra bảo tôi rằng ông nó không có nhà.
Mấy lần đều như vậy cả nên tôi đã sinh nghi. Lần cuối cùng, trước khi bấm chuông, tôi còn nghe thấy tiếng vợ chồng anh. Nhưng thằng nhỏ vẫn quả quyết rằng ông bà nó về trại những từ tối hôm trước kia rồi. Ðã đích xác là anh không muốn tiếp tôi. Chẳng hiểu vì sao. Nhưng từ đấy tôi không đến nữa. Mỗi lần gặp nhau ở ngoài đường, chúng tôi chỉ bắt tay nhau một cách rất lạnh lùng, hỏi thăm nhau một câu chiếu lệ, rồi ai đi đường nấy. Tôi đã biết Hoàng vẫn có tính tự nhiên "đá" bạn một cách đột ngột, vì những cớ mà chỉ mình anh biết. Có khi chỉ là vì một tác phẩm của người bạn ấy được cảm tình của một nhà phê bình đã chê một vài tác phẩm của anh. Có khi cũng chẳng cần đến thế. Anh có thể là một người bạn rất thân của anh Hoàng khi anh chỉ là một nhà văn ở tỉnh xa chỉ góp mặt với Hà Nội bằng những bài gửi về đăng báo, nhưng nếu anh lại về sống hẳn ở thủ đô, giao thiệp với ít nhiều nhà văn khác, anh sẽ không phải là bạn anh Hoàng nữa. Có lẽ anh Hoàng biết cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi anh nhiều quá.
Riêng tôi, trước đây, tôi vẫn không hiểu sao người ta có thể khinh ghét anh nhiều thế. Tận đến lúc bị anh đá tôi mới hiểu. Tôn còn được hiểu rõ ràng hơn. Vào cái hồi quân đội Ðồng minh vào giải giáp quân Nhật ở nước ta, một số gái kiếm tiền trút bộ đầm ra để mặc bộ áo Tầu. Còn anh bạn của tôi, chẳng biết bám được ông má chín nào, ra một tờ báo hằng ngày để chửi vung lên. Chửi hết cả mọi người rồi anh mới lôi đến một số bạn cũ của anh ra. Toàn là những người hiền lành, xưa nay chưa hề chạm đến một sợi tóc của anh. Nhưng tên họ trên những tờ báo của phong trào giải phóng quốc gia được hoan nghênh làm ngứa mắt anh. Anh hằn học gi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ. Tôi cười nhạt. Không phải tôi khó chịu vì những lời vu cáo của anh. Tôi khó chịu chính vì thấy đến tận lúc ấy mà vẫn còn một số nhà văn Việt Nam dùng ngòi bút mình để làm những việc đê tiện thế. Anh Hoàng vẫn là con người cũ. Anh không chịu đổi. Tôi đã tưởng anh với tôi chẳng bao giờ còn thân mật với nhau trở lại... Nhưng sao gặp tôi lần này anh lại hân hoan đến thế ? Anh đã đủ thì giờ để lột xác rồi chăng ? Hay cuộc kháng chiến mãnh liệt của dân ta đã quét sạch khỏi đầu anh những cái gì cũ còn sót lại ? Thật tình, tôi rất cảm động khi nghe thấy anh kể lể :
- Chẳng ngày nào chúng tôi không nhắc đến anh. Nguyên một hôm xem tờ báo của ông hàng xóm thấy có bài của anh, tôi đoán anh làm tuyên truyền ở tỉnh này. Tiện gặp một cán bộ về làng, tôi nhờ gửi cho anh một bức thư. Cũng là gửi cầu may. Thật không dám chắc thư đến tay anh. Mà có đến, có lẽ anh nhiều việc, cũng khó lòng về chơi với chúng tôi. Thế mà lại được gặp anh. Trông anh không lấy gì làm khoẻ mà sao anh đi bộ tài thế ? Mà sao anh lại tìm vào được đúng làng này ? Hồi mới đến đây, tôi ra khỏi nhà độ mươi bước là đã lạc. Nhiều ngõ quá mà ngõ nào cũng giống ngõ nào. Có khi ra đồng về cũng nhầm ngõ...
Cái nhà Hoàng ở nhờ có thể gọi là rộng rãi. Ba gian nhà gạch sạch sẽ. Hàng hiên rộng ở ngoài. Sân gạch, tường hoa. Một mảnh vườn trồng rau tươi rười rượi. Xinh xắn lắm. Thích nhất là gia đình anh được ở cả nhà. Chủ nhân cũng là người buôn bán trên Hà Nội. Ông thường nhờ vốn liếng và mối hàng của vợ chồng anh. Còn gì hơn là lúc này trả nghĩa lại nhau. Ông đã dọn sang nhà ông bố ở liền bên, nhường lại nhà cho anh hoàn toàn sử dụng. Anh cho tôi biết thế và bảo tiếp :
- Giá chúng tôi chưa tìm được nhà ông thì chưa biết ra sao. Tôi thấy nhiều người tản cư khổ lắm. Anh tính có đời nào anh ruột tản cư về nhà em mà đến lú vợ đẻ, em bắt ra một cái lều ngoài vườn để đẻ !
Tôi cho anh biết người nhà quê mình có tục kiêng...
- Thì đã đành là vậy... Anh nói giọng tức tối và bất bình - Thì đã đành là vậy, nhưng lúc này còn kiêng kỵ gì ? Mà có những thế thôi đâu ! Thấy anh bây giờ khổ sở, em đã chẳng thương, lại còn xỉa xói, nhắc đến những lúc hoang phí trước để mà xỉ vả. Nào "lúc có tiền thì chẳng biết ăn biết nhịn để dè, chỉ biết nay gà mai chó !", nào "lúc buôn bán phát tài, bảo gửi tiền về quê tậu ruộng vườn thì bảo không cần vườn ruộng, để tậu nhà ở tỉnh kia, bây giờ không bám lấy nhà ở tỉnh đi ?..." Tệ lắm ! Anh tính mấy đời mới có một phen loạn lạc thế này ? Có tiền, thằng nào chẳng ăn chơi ? Có mấy người cứ còm cọm làm như trâu, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, ở thì chui rúc thế nào cho xong thôi, để tiền mà tậu vườn, tậu ruộng như họ ?
Chị Hoàng tiếp lời chồng :
- Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi đùng một cái, đánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thì chạy làm sao kịp ? May mà còn vớt vát được ít tiền, một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi, ở ngoại thành. Khéo lắm thì ăn được độ một năm. Ðến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ, lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục.

Họ tàn nhẫn lắm cơ, bác ạ !
Anh Hoàng cười :
- Mà sao họ đã bận rộn nhiều đến thế mà vẫn còn thì giờ chú ý đến những người chung quanh nhiều đến thế ? Anh chỉ giết một con gà ngày mai cả làng này đã biết. Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh béo gầy thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái.
Tôi mỉm cười, cắt nghĩa cho anh hiểu : lúc này họ cần để ý đến những người lạ mặt tới làng. Tôi chắc mấy người nấp nom tôi là mấy người có trách nhiệm trong uỷ ban mấy anh tự vệ.
- Lại còn các ông uỷ ban với các bố tự vệ nữa mới chết người ta chứ ! Họ vừa ngố vừa nhặng sị. Ðàn bà chửa mà đến nỗi cho là có lựu đạn giắt trong quần ! Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế mà động thấy ai đi qua là hỏi giấy. Anh đi, hỏi. Anh về, hỏi, hỏi nữa. Anh vừa ra khỏi làng, sực nhớ quên cái mũ, trở lại lấy, cũng hỏi rồi mới cho vào. Lát nữa anh ra, lại hỏi. Hình như họ cho cái việc hỏi giấy là thú lắm.
Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi, hỏi :
- Anh sống ở nhà quê nhiều, anh có hiểu tâm lý của họ không ?
Anh thử cắt nghĩa hộ tôi tại làm sao họ lại nhiêu khê đến thế ?
Từ trước đến nay, tôi chỉ hoàn toàn ở Hà Nội, thành thử chỉ mới biết những người nhà quê qua những truyện ngắn của anh. Bây giờ gần họ, tôi quả là thấy không nhịn được. Không chịu được !
Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối. Vợ chồng anh thi nhau kể tội người nhà quê đủ thứ. Toàn là những người đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả. Cha con, anh em ruột cũng chẳng tốt với nhau. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng lố lăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả dân tân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ ! Họ mà tóm được ai thì có mà chạy lên trời ! Thế nào họ cũng tuyên truyền cho hàng giờ. Có lẽ họ cho những người ở Hà Nội về như vợ chồng anh đều lạc hậu, chưa giác ngộ nên họ không bỏ lỡ một dịp nào để tuyên truyền vợ chồng anh. Mà tuyên truyền như thế nào !...
Anh trợn mắt bảo tôi :
- Tôi kể cho anh nghe chuyện này thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa một tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ huyện chơi. ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Ðành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi. Chờ mãi mới thấy một ông thanh niên nghễu nghện vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi : "Ði chợ huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi !" Anh ta trố mặt nhìn tôi chẳng rằng chẳng nói, như nhìn một giống người lạ mới từ Hoả tinh rơi xuống. Tôi biết hiệu, rút giấy đưa cho anh xem rồi lại hỏi. Bây giờ anh ta mới bảo : "Ông cứ đi lối này, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cách đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng qua đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa là đến chợ". Ðại khái thế, chứ không hoàn toàn đúng thế. Chỉ biết là nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái quá, đến nỗi tôi không tài nhận nhận được. Anh ta bày cho tôi một cách : đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì theo. Tôi cho là phải. Anh ta cười bảo : "Thôi thế chào ông. Cháu vô phép ông đi trước. Cháu vội lắm. Cháu phải vác ngay bó tre này lên Thượng để làm công tác phá hoại, cản cơ giới hoá tối tân của địch. Cuộc trường kỳ kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn : giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm cự, giai đoạn tổng phản công. Giai đoạn phòng ngự nghĩa là..." Anh ta cứ thế, đọc thuộc lòng cho tôi nghe cả một bài dài đến năm trang giấy.
Chị Hoàng cười rú lên. Tôi cũng cười, nhưng có lẽ cái cười chẳng được tươi cho lắm. Anh thấy cần phải thề lần nữa :
- Tôi có bịa thì tôi chết. Mà tôi lại thề với anh rằng lúc ấy tôi ngạc nhiên quá, không còn cười được, vả lại cũng không dám cười. Cười, nhỡ anh ta đánh cho thì tai hại. Nhưng từ hôm ấy ngày nào tôi cũng bắt nhà tôi đóng cổng suốt ngày không dám đi đâu nữa.
Tôi cười gượng. Ðiều muốn nói với anh, tôi đành giấu kín trong lòng không nói nữa. Tôi biết chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép như tôi. Vả lại dầu có rủ được anh làm như tôi, khoác cái ba lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kỹ càng hơn cũng chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi. Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn" nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản.
Tôi biết lắm. Trước mặt người đàn anh trong văn giới ấy, tôi chỉ là một kẻ non dại, mới tập tọng học nghề. Bởi vậy tôi không dám nói hết những ý nghĩa của tôi ra. Tôi chỉ rụt rè và đưa ra vài điểm nhận xét :
- Có nhiều cái kỳ lạ lắm. Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi dã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, theo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến "sức mạnh quần chúng", tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngả ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là "nựu đạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh, mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con, nhà cửa, như họ vẫn thường thế nữa. Gặp họ, anh không thể tưởng tượng được rằng chính những người ấy, chỉ trước đây dăm tháng, giá có bị anh lính lệ ghẹo vợ ngay trước mặt cũng chỉ đành im thin thít mà đi, đi một quãng thật xa rồi mới dám lẩm bẩm chửi thầm vài tiếng, còn bao nhiêu ghen tức đành là đem về nhà trút vào má vợ.
Hoàng nhếch một khoé môi lên, gay gắt :
- Nhưng anh vẫn không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố không chịu được. Tôi thấy có nhiều ông tự vệ hay cả vệ quốc quân nữa táy máy nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm đến một khẩu súng kiểu lạ, không biết bắn thế nào. Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi rồi cũng biết. Thì cứ để cho họ đánh Tây đi ! Nhưng tai hại là người ta lại cứ muốn cho họ làm uỷ ban nọ, uỷ ban kia nữa, thế mới chết người ta chứ ! Nói thí dụ ngay như cái thằng chủ tịch uỷ ban khu phố tôi ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau, nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm uỷ ban ? Ông chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy, thì đàn bà ai cũng phải là thị này, thị nọ. Chị Hoàng cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra. Rút khăn tay lau nước mắt xong, chị chép miệng lắc đầu, bảo tôi :
- Giá bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cười đến chết. Thế mà ông chủ tịch ấy cứ nằn nì mãi hai ba lượt, yêu cầu nhà tôi dạy bình dân học vụ hay làm tuyên truyền giúp.
Anh chồng tiếp :
- Tôi chẳng có việc gì làm, lắm lúc cũng buồn. Nhưng công tác với những người như vậy thì anh bảo công tác làm sao được ? Ðành để các ông ấy gọi là phản động.
Muống lảng chuyện, tôi hỏi :
- Lúc này nhiều thì giờ thế, chắc anh viết được. Anh đã viết được cái gì thú chưa ?
- Chưa, bởi vì ngay đến một cái bàn viết ra hồn cũng không còn nữa. Nhưng thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng. Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết !
Cơm chiều xong vào lúc bốn giờ, Hoàng mời tôi cùng đi với vợ chồng anh đến chơi nhà mấy người ở phố cũng tản cư về. Có đâu một ông tuần phu về hưu, một ông đốc học bị thải hồi vì một vụ hiếp học trò, một cụ phán già trước đây chuyên môn sống về nghề lo kiện, hay chạy cửu phẩm cho thiên hạ. Anh chẳng ưa gì họ bởi vì họ chẳng biết gì đến văn chương nghệ thuật, chỉ tổ tôm là giỏi.
Nói chuyện với họ chán phè. Nhưng nếu chẳng giao thiệp với họ thì cũng chẳng biết đến chơi nhà ai được nữa... Anh vừa đi vừa tâm sự nhỏ với tôi như vậy, và thì hầm kề sát tai tôi những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của từng người một, trong khi chúng tôi bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút.
Chị Hoàng rảo bước để theo kịp chúng tôi. Hai má đỏ ứng vì lửa bếp. Chị cắt nghĩa sự chậm trễ của chị :
- Tôi xem lại nồi khoai lang vui, để lát nữa về ăn. ở đây cao lương mỹ vị chẳng có gì, nhưng được cái thức ăn vặt thì sẵn. Bác ở chơi đây, mai tôi xem nhà ai có mía to mua mấy cây về ướp hoa bưởi ăn thơm lắm.
Ðến một cái cổng gạch lớn có dây leo, anh Hoàng giật dây chuông.
Một thằng bé chạy ra, lễ phép chào :
- Lạy ông !
- Không dám. Cụ Phạm có nhà không cậu ?
- Bẩm ông, cụ sang bên ông đốc.
- Sao thấy nói ông đốc ở đây từ sáng ?
- Bẩm không ạ ! Sáng nay không thấy ông đốc sang chơi bên này.
Chúng tôi quay trở lại. Qua mấy cái ngõ ngoằn ngoèo khác, đến một cái cổng gạch có dây leo khác. Một chị vú ẵm em đứng cổng :
- Lạy ông ! Lạy bà !
- Không dám. Ông đốc có nhà hay đi chơi vắng ?
- Bẩm ông, ông đốc con sang cụ tuần.
- Sao bên cụ tuần bảo sang đây ?
- Bẩm ông, không ạ !
Anh Hoàng quay ra. Ði được mấy bước, anh quay lại khẽ bảo vợ :
- Các bố lại tổ tôm. Mụ Yên Kỷ cũng không có nhà, phải không ?
Con mụ ấy cũng là đệ tử tổ tôm hạng nặng. Chắc họ tụ tập ở đây hay ở bên nhà cụ Phạm, sai người gác cổng.
Chị Hoàng không có ý kiến gì. Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi :
- Anh nghĩ có buồn không ? Tri thức thì thế đấy. Còn dân thì... như anh đã biết.
Tôi thầm rủa sự tình cờ sao lại xô đẩy anh về đây cùng với bằng ấy thứ cặn bã của giới thượng lưu trí thức. Sao anh không đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền nhập bọn với các đoàn văn hoá kháng chiến để được thấy những sinh viên, công chức sung vào vệ quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay các viện quân y, những bạn văn nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào quần chúng để học họ và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ ?
Tôi cười nhạt :
- Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à ?
Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột :
- ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. H-C-M đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp, mà chỉ có đến thằng Ðờ-Gôn.
Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến khác của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy Ðờ-Gôn. Anh lắc đầu :
- Bằng thế nào được H-C-M !
Và anh tiếp :
- Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mỹ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp ông già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa là gì ? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mỹ xúi thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3 ? Mình cho nó như vậy đã là phúc đời nhà nó lắm rồi. Ðáng lẽ nó phải bám chằng chằng lấy chứ ?
Buổi tối ăn khoai vùi xong, uống mấy tuần trà rồi đi nằm sớm. Anh sợ tôi đã đi hàng mười cây số, lại ngồi nói chuyện suốt từ lúc đến, chắc không thể ngồi được nữa. Vả lại tuy chưa buồn ngủ nhưng nằm đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi thì vẫn tốt. Hai cái giường nhỏ kề song song, cách nhau có một lối đi nhỏ. Màn tuyn trắng toát. Chỉ trông cũng đã thấy thơm tho và thoải mái.
Hoàng với tôi đi nằm trước. Một gói thuốc lá thơm và một bao diêm đặt ở bên cạnh cái đĩa gạt tàn thuốc lá ở đầu giường. Tôi để nguyên cả quần áo tây và chỉ ngay ngáy lo đêm nay một vài chú rận có thể rời sơ-mi tôi để du lịch ra cái chăn bông thoang thoảng nước hoa. Mọi hôm tôi vẫn đắp chăn chung với anh em thợ nhà in, cái giống ký sinh trùng hay phản chủ ấy, ở người tôi, không dám cam đoan là tuyệt nhiên không có.
Chị Hoàng thu dọn đồ đạc, đóng cửa, rồi đem một cây đèn to lại chỗ cây giường chúng tôi, lấy ra một cái chai. Anh Hoàng trông thấy, hỏi :
- Mình thắp đèn to đấy à ?
- Vâng, tôi đổ thêm dầu đã.
Anh Hoàng hỏi tôi :
- Anh có thích đọc Tam Quốc không ?
Tôi thú thật là chưa bao giờ được xem trọn bộ.
- Thế thì thật là đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết Ðông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Về cái môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất. Nhưng cũng chỉ có hai bộ ấy thôi. Thuỷ Hử cũng hay, chẳng kém Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Những tiểu thuyết khác hay đến đâu, anh cũng chỉ đọc một câu. Ðọc đến lần thứ hai là giảm thú rồi. Nhưng Tam Quốc với Ðông Chu thì đọc đi đọc lại mãi vẫn thấy thú như mới đọc.
- Anh có hai bộ ấy ở đây không ?
- Bộ Ðông Chu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu đời chứ ! Hận quá, may mà bộ Tam Quốc lại để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không thì buồn đến chết.
Anh gạt tàn thuốc lá rồi bảo tiếp :
- Sở dĩ lúc này tôi hỏi anh là có thích đọc Tam Quốc không là vì mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi có cái thú đọc một vài hồi Tam Quốc rồi mới ngủ. Nhưng hôm nay anh không biết có nên bỏ cái lệ ấy đi không ? Nếu anh thích nói chuyện thì nghỉ một tối để chúng mình nói chuyện cũng chẳng sao.
Cố nhiên là tôi mời vợ chồng anh cứ giữ lệ thường. Anh có vẻ mừng rỡ lắm :
- Vâng, nếu anh cho phép thì ta cứ đọc. Chúng mình cùng nghe rồi lúc nào buồn ngủ thì ta ngủ. Tôi trông anh hơi mệt có lẽ cần ngủ sớm. Không biết đèn sáng lại đọc thế có phiền anh không ?
Tôi cho anh biết là tôi vẫn ngủ ngay trong nhà in, đèn sáng và máy chạy ầm ầm, ở đây chăn ấm thế này thì dẫu súng có nổ ngay ở liền bên tôi vẫn ngủ ngon lành lắm... Anh cười cùng cục trong cổ như một con gà trống :
- Vâng, thế thì ta cứ đọc. Mình lấy ra đi.
Chị Hoàng chạy lại bíp lấy một quyển sách bìa dày, gáy da, đem lại.
- Mình đọc hay tôi đọc ?
- Mình đọc đi.
Chị để cây đèn lên trên cái đôn thấp ở đầu giường, cởi áo dài lên giường nằm cạnh thằng con đã chui vào chăn trước.
- Hôm qua đọc đến đâu rồi nhỉ. Hình như...
- Không cần, mình đọc lại cái đoạn thằng Tào Tháo nó tán Quan Công ấy. Thế nào ? Theo ý anh thì Tào Tháo có giỏi không ?
Tôi trả lời qua loa cho xong chuyện :
- Tôi thấy nói là nó giỏi.
- Giỏi lắm anh ạ ! Giỏi nhất Tam Quốc. Sao nó tài đến thế.
Chị Hoàng đã tìm thấy, bắt đầu cất tiếng thanh thanh đọc. Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đọc đến đoạn hay anh lại vỗ đùi kêu :
- Tài thật ! Tài thật ! Tài đến thế là cùng ! Tiên sư anh Tào Tháo.

Thanked by 2 Members:

#116

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 17/07/2014 - 04:29

Lễ thổi tai và rượu cần, tản mạn nhớ và quên

Các bạn nghĩ Tây Nguyên có lắm điều kỳ không, nhân vật giữ chức năng thiêng liêng duy trì cái nhớ cho giống nòi đó, đồng thời cũng tác giả chế ra thứ thuốc quên kỳ diệu nhất của Tây Nguyên: rượu cần. Bạn có muốn biết cách thức một người đàn bà Tây Nguyên chế biến rượu cần không? Đấy là cả một giả kim thuật bí hiểm, hoặc cũng rất có thể là một trò phù thủy không hơn không kém...

Nếu bạn có dịp đến Tây Nguyên, và đừng có bị cuộc làm ăn bây giờ lúc nào cũng lôi kéo con người ngược xuôi tất tả, như có người nói, hãy "thoải mái một chút, hồ đồ một chút", dám vứt đi mọi lo toan gẫm cho cùng cũng chẳng có gì là nghiêm trọng ghê gớm lắm đâu, bạn nán lại ở chơi với Tây Nguyên dăm ba bữa, được mươi ngày nửa tháng càng hay, thì cũng chẳng cần chăm chú lắm đâu, bạn sẽ nhận ngay ra điều này: người đàn ông Tây Nguyên rất thích lang thang...

Tôi có anh bạn rất giỏi và rất thích xem tử vi. Giá anh ấy có dịp lập tử vi cho tất cả đàn ông Tây Nguyên, tôi tin chắc lá số nào của họ cũng có một chữ "Lữ" to tướng. Lữ hành. Đàn ông Tây Nguyên, đó là những chàng lữ khách không biết mệt chán, suốt đời.

Ở Tây Nguyên, có một phong tục rất thú vị: khi đứa bé trai sơ sinh vừa tròn tháng, người ta đặt nó nằm trên một chiếc chiếu giữa sàn nhà và vứt cạnh nó ba vật tượng trưng: một con dao, một mẩu gỗ nhỏ và một cây gậy. Đứa bé sẽ quờ tay chạm vào một trong ba vật ấy. Nếu chạm đúng con dao, mai sau nó sẽ là một chiến binh dũng mãnh; chạm phải mẩu gỗ (tượng trưng cho chiếc gậy chỉ huy) nó sẽ trở thành một thủ lĩnh lớn. Còn đứa nào chạm phải cây gậy thì chắc chắn sẽ trở thành một khách lữ hành miệt mài, mãi mãi lang thang trên những nẻo đường bất tận, đi tìm những điều tốt lạ của cuộc đời. Tất nhiên Tây Nguyên không thiếu những chiến binh anh hùng và những thủ lĩnh lừng danh. Nhưng người ta bảo, bọn bé trai sơ sinh, chúng nó mới tròn tháng tuổi mà đã sớm láu thế, hầu hết chúng nó đều nắm chặt lấy cây gậy, nhiều khi gỡ mãi cũng chẳng chịu buông ra! Tôi cũng có một anh bạn thân người Jrai ở tít một làng rất hẻo lánh, mỗi lần lên Tây Nguyên thế nào tôi cũng cố tìm đến tận nơi thăm anh. Ấy vậy mà mươi lần, may lắm chỉ một hai lần anh có nhà. Còn thì lần nào cũng thế, chị vợ anh buông chiếc chày giã gạo hay dừng tay đang trộn men rượu cần trên chiếc nong tròn đan khéo như một tác phẩm nghệ thuật, ngửng lên lắc đầu: "Y Yơn hả? Vô trong rừng mà tìm. Đang làm rượu cho nó về uống đây này!"

Biết tìm ở đâu bây giờ, Tây Nguyên nơi đâu chẳng là rừng! Người đàn ông Tây Nguyên suốt đời ở trong rừng, hoặc đuổi theo một con thú, hoặc lần vết một đàn o­ng mật, hoặc lặn lội ngược những con suối đá lởm chởm và trơn trợt truy tìm tung tích một con cá chình núi, hay loay hoay chặt cây vác đá chặn đứng cả một dòng suối lại để tát cá, hoặc mải miết đuổi theo một con lợn rừng, một con kỳ đà, một con cúi, một con chuột... Hoặc mải mê đi tìm một cây gỗ đẹp để làm tượng, tít tận trong rừng thẳm hay trên một đỉnh núi dốc ngược. Hoặc cũng không ít khi ở trong nhà, nhưng là nhà... một người họ hàng, một người bạn cố tri, hay cũng rất có thể một người bất kỳ nào đó cũng đang lang thang như chính anh ta, mới cùng nhau đánh bạn trên đường, tận một làng không tên xa lơ xa lắc, la đà tán gẫu và hút rượu cần. Và lúc ấy thì chẳng còn cần biết trời đất là gì nữa, chẳng còn cần biết là đang ở trong không gian, thời gian nào nữa, cũng chẳng thèm nhớ đường về. Lúc ấy là cuộc lữ hành đã chuyển sang một thế giới khác, một không-thời-gian khác, thế giới và không-thời-gian của quên, mà xin bạn đọc chớ sốt ruột, chốc nữa đây tôi sẽ cố nói rõ hơn cùng bạn.

"Định mệnh" của người đàn ông ở đây là thế. Họ là ở bên ngoài, là thuộc về ngoại giới, ở ngoài ngôi nhà của họ, gia đình họ, ở nơi mà theo một nghĩa nào đó, con người không thật sự còn có "trách nhiệm" nữa, hay ít ra đã nhẹ trách nhiệm đi rất nhiều. Như vậy bạn thấy đấy, ở Tây Nguyên người đàn ông, người cha là bên ngoại chứ không phải bên nội. Con cái không theo dòng máu của cha, không sinh ra cùng với tên họ của cha. Ở đây cội rễ của sự sống không phải là người đàn ông. Người đàn ông chẳng là gì cả trong dòng chảy liền mạch vô thủy vô chung của các thế hệ. May lắm thì anh chỉ là một cái thúc đẩy nào đó, một cú hích nào đó trong cơ chế tiếp nối thiêng liêng ấy, chứ không phải là gốc rễ, cội nguồn quyết định của nó. Đứa con có thể không có cha, chứ không bao giờ không có mẹ.

Ở đây người đàn bà mới là bên nội. Bà ở bên trong, là nội giới, là nhân tố quyết định của sự nội sinh, là chủ nhân đích thực của dòng chảy. Cho nên bà là người chủ của sự sống, người chủ của gia đình, là cội rễ, là rường cột. Chính bà giữ sự ổn định cho cuộc sống. Chính người đàn bà truyền dòng máu của mình cho các thế hệ nối tiếp, tức chính bà là người giữ bền chặt "chương trình" của sự sống, để cho sự sống không bị đứt đoạn, không bị "quên".

Cho nên, nói theo nghĩa sâu nhất, người đàn ông là quên, còn người đàn bà là nhớ. Bà giữ bền cái nhớ cho giống nòi.

Ở Tây Nguyên, một đứa bé lọt lòng mẹ ra vẫn chưa phải là một con người. Người ta phải thổi linh hồn vào cho nó thành người. Thổi vào đâu? Thổi qua lỗ tai. Vì thế mà có lễ thổi tai cho đứa bé sơ sinh. Người thổi tai bao giờ cũng là người đàn bà, đương nhiên phải là như vậy, bởi như đã nói, chỉ có bà mới giữ giềng mối của sự sống kia mà. Người đàn bà thổi tai thường là một bà đã đứng tuổi - để cho cái nhớ được bền chắc chăng? - bà cầm một cuộn chỉ bông, lấy ra từ chiếc xa quay, phun gừng mà bà đã nhai nát vào đó, rồi thổi bảy lần vào cuộn chỉ đặt sát vào tai đứa bé. Vừa thổi vừa khấn:
hluh amang adung thông lỗ mũirhung anang tongia tinh lỗ taibbèt rosung roya phun gừng tongia gah iao tai tráihoning ko brua' nhớ lấy công việctongia gah hnua' tai phải honing ko hmua nhớ lấy ruộng rẫy
Làm người, hãy nhận lấy hồn người đây Con traiPhải nhớ lấy cái cuốcPhải nhớ lấy cái rìuPhải nhớ lấy cái giáo giữ làngCái ná và ống tên Con gáiChớ quên chiếc xa cán bôngCái go dệt vảiChớ quên cái yết làm cỏCái gùi suốt lúaGiọt nước đầu làngVà bếp lửa ủ ấm mẹ cha...

Bạn thấy chưa, từ "nhớ" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và cơ quan của sự nhớ, cũng tức là của sự hiểu biết, thông tuệ, con đường đi vào của linh hồn, chính là lỗ tai. Ta có thể hiểu đối với những dân tộc chưa có văn tự, lời nói, sự nghe và cái nhớ quan trọng đến chừng nào. Nhớ chính là sống, bởi vì sống bao giờ cũng có nghĩa là sống cùng, nhớ có nghĩa là biết rằng mình là một khâu, một mắc xích không thể tách rời trong dòng chảy không bao giờ dứt nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến vĩnh hằng.

Lại còn một điều này phải chú ý nữa: trong tất cả các nghi lễ, người cầu khấn bao giờ cũng là người đàn ông. Duy có trong lễ thổi tai, lễ truyền cái nhớ, tức sự sống cho sinh vật vừa sinh ra được chính thức thành người, người cầu khấn là người đàn bà.

Bà là người tuyên ngôn sự sống, bà nắm giữ bộ nhớ muôn đời của sinh tồn.
Vậy mà, các bạn nghĩ Tây Nguyên có lắm điều kỳ không, nhân vật giữ chức năng thiêng liêng duy trì cái nhớ cho giống nòi đó, đồng thời cũng tác giả chế ra thứ thuốc quên kỳ diệu nhất của Tây Nguyên: rượu cần.
Bạn có muốn biết cách thức một người đàn bà Tây Nguyên chế biến rượu cần không? Đấy là cả một giả kim thuật bí hiểm, hoặc cũng rất có thể là một trò phù thủy không hơn không kém.
Rượu cần được làm bằng những thứ thông thường nhất trong đời sống hàng ngày: gạo, ngô, sắn, hoặc một loại ngũ cốc nào đó, người ta bảo ngon nhất là rượu kê..., tất cả được nấu chín, giã nát ra, vê thành những viên nhỏ. Và trộn với men.
Tất nhiên toàn bộ vấn đề là ở men.
Men được chế bằng những thứ thảo mộc đặc biệt có khi là lá, có khi là rễ, cũng có khi là vỏ cây. Cây gì? Bí mật. Chỉ có đàn bà biết, và chúng đều mọc trong rừng rất sâu nơi, như người ta nói, là chốn cư trú của các cô gái-rừng, nửa là người nửa là thần linh và chức năng chủ yếu là mê hoặc con người. Hoặc đúng hơn, dắt dẫn con người vào một thế giới khác cái thế giới quá ư nhàm chán hàng ngày này của chúng ta. Một số nhà khoa học có lần đã lén men theo dấu vết các bà đi lấy vật liệu làm men trong rừng. Họ thử hái một số lá, rễ, vỏ cây đó, và đã đem tra cứu, đối chiếu trong các từ điển bách khoa thực vật học uyên bác nhất. Họ nhận ra và xác định được tên khoa học của một số loại cây ấy. Phần lớn đó là những loại cây độc dược. Chỉ có điều khi họ đem về trồng trong các vườn của họ thì chúng đều mất hết tác dụng, có trời hiểu được vì sao! Phải là hái tận trong rừng sâu, và tự tay các bà hái và pha chế kia. Đã bảo đây là các nữ phù thủy mà lại!
Bột gạo, ngô, kê hay sắn trộn với thứ men tinh quái đó được ủ trên những chiếc nong phủ kín lá chuối trong ba đêm liền. Trong ba đêm ấy, như một đoàn âm binh bí ẩn, men ngủ say. Đến ngày thứ ba, người đàn bà sẽ sàng mang nong ra đến cửa nhà, và đánh thức men dậy:
ru' togu' dậy đi, nào mentogu' be' nào, dậy đidih pit tah ta ngủ say rồiswaih yoh giờ dậy thôi nào!
Ân cần, nâng niu như người mẹ đánh thức đứa con ngoan ngoãn, hiền lành. Nhưng xin chớ vội nhầm. Bởi vì ngay sau đó, đột ngột là những lời "giao nhiệm vụ" ghê gớm này cho đoàn quân men hóa ra là rất ma quái này của các bà: co topai ne' này men hãy khiếnpotah phun céh cho nôn tại ghèéh phun topai cho ỉa tại chỗrokoi toh toại đàn ông cởi khốbonai yeih eng đàn bà tụt váy!
Vẫn chưa vừa đâu. Bà lại tiếp tục khấn, bây giờ là khấn thay cho người đàn ông sẽ uống rượu do tay các bà chế ra:o yang pap ko kau lạy thần, xin thương tôio yang broi ko kau lạy thần, xin ban cho tôikiang ko jorok sang arang được lạc vào nhà người takiang ko dih bonai arang ăn nằm với vợ người ta!...
Trên khắp thế gian, có ở đâu người ta trao cho rượu những "chức năng" ghê gớm như vậy không? Và lại chính là người đàn bà trao. Chỉ người đàn bà làm việc ấy. Đàn ông tuyệt đối không bao giờ đụng tay vào việc pha chế rượu cần. Đây là lĩnh vực riêng, thế giới riêng, bí quyết riêng, quyền lực riêng của các bà.

Trước khi đổ tất cả cái món thuốc độc kỳ lạ ấy vào ghè, người đàn bà còn bưng lấy chiếc nong mà quay tròn, hoặc đi vòng tròn quanh nong, vừa đi vừa như múa, để làm cho chất say của bà càng khiến người ta chóng mặt quay cuồng hơn. Và rồi người ta xếp các ché rượu được ủ kín, các quả bom nổ chậm đáng sợ mà xiết bao hấp dẫn, say mê ấy dọc theo vách nhà hoặc cũng có khi treo chúng lên trên các xà dọc vách... cho đến khi chúng được trân trọng bê xuống, buộc vào cột nhà, mở lớp lá phủ miệng, đổ nước, cắm cần vào... Và cuộc la đà bất tận của các ông và cả các bà nữa bắt đầu...
Cho đến tận lúc ấy, người đàn bà phù thủy vẫn chưa chịu tha đâu. Bà còn tiếp tục khấn:co topai ne' này hỡi men saymomih phi momih hang ngọt đắng cay nồngcoddang mang tongia nẻ cả lỗ taiwor toco hia quên cả cháu khócwor tona asoi ko ung sang quên cả nấu cơm cho chồng!
Tất nhiên là "quên cháu khóc" và "quên nấu cơm cho chồng" rồi.Đến khố váy cũng còn chẳng thiết nữa là! Bây giờ đã là một thế giới khác, một vũ trụ khác, ở đó mọi cấm đoán, kiêng cữ, luật lệ thường ngày đều vô nghĩa, mọi sự đều được phép. Lẫn lộn tất cả. Đảo lộn tất cả. Xóa nhòa tất cả. Các thân hình xáp vào nhau... Và ở Tây Nguyên, trong các cuộc say này, có một nguyên tắc nhất thiết phải theo: mọi người phải cùng say, không còn ai được tỉnh, không còn nhân chứng tỉnh táo nào nữa. Tất cả cùng đi vào một thế giới khác với những quy luật khác: thế giới nơi ngự trị các quy luật của quên.
Một nhà dân tộc học có được nghe một người Jrai kể lại câu chuyện thú vị sau đây về rượu cần:Một lần có anh chàng đi uống rượu ở nhà bạn về, say mèm, một mình trong đêm. "Sợ gì chứ? Gặp một con voi hay một con tê giác, ta sẽ đánh tuốt!" Anh hét tướng lên giữa rừng. Đã say mà lại, anh ta chẳng còn biết sợ gì cả. Một con voi rừng xuất hiện: "Ngươi vừa nói gì đấy? Ngươi muốn đánh ta à? Thì đánh?" - "Ôi không, thưa ông, tôi đâu dám. Tôi chỉ say rượu thôi mà". - "Say gì?" - "Thưa ông, rượu cần ạ?" - "Ồ, ta muốn nếm thử xem!" - "Xin mời ông đến nhà tôi ngày rằm, tôi sẽ thết ông một bữa".
Về nhà, anh ta bảo vợ làm thật nhiều ghè rượu, đủ loại lớn nhỏ, chật cả nhà. Rằm, voi đến. "Nó đến đấy, sắp sẵn rượu ra đi". Anh ta hút rượu ra các chậu to tướng. "Rượu tôi đã thưa với ông đây, xin mời!". Voi hút rượu, hết sạch các chậu. Say mèm, nó rống lên: "Một trăm người, một ngàn người đến đây, ta cũng lấy ngà đâm chết hết!". Và nó húc đổ tất cả cây cối chung quanh. Sáng hôm sau, mọi việc qua đi. Người đàn ông hỏi voi: "Hôm qua ông nói những gì vậy?". "A, nhóc con, người có lý. Ta sẽ không ăn thịt ngươi đâu cả con cháu dòng dõi ngươi nữa. Ta chẳng thèm để ý đến lời nói của một người Jrai say. Vì bây giờ ta đã biết rồi. Ta đã uống rượu của người rồi mà?"...

Bạn có để ý điều này trong lời khấn cuối cùng đã nhắc đến trên kia không: rượu cần ngọt đắng cay nồng khiến người ta say đến "nẻ cả lỗ tai". Lỗ tai, như đã nói, là con đường đi vào của linh hồn, là cửa ngõ của cái nhớ, là cơ quan của sự thông tuệ. Người khai mở con đường ấy khi đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ để nó được trở thành người, người đem đến cái nhớ, điều kiện thiết yếu của sự sống, bằng lễ thổi tai, là người đàn bà. Và bây giờ, người làm cho cái cơ quan thiêng liêng ấy đến phải "nẻ" ra, người dắt người ta vào cõi quên đến tận sát ranh giới của tuyệt đối, khi con người sắp đánh mất cả bản nguyên của mình, cũng lại chính là đàn bà. Đàn bà Tây Nguyên là vậy đấy, bây giờ thì bạn đã rõ chưa?
Một đôi người có hiểu biết sâu về Tây Nguyên và thật tò mò cố ra sức moi tìm bí quyết của rượu cần bảo rằng trong những thành phần độc dược rất đa dạng và bí hiểm các vị nữ phù thủy ở đây dùng trong quy trình pha chế món men ghê gớm của họ, có một thứ không thể thiếu: củ riềng. Thậm chí người ta bảo chính củ riềng là tác nhân chính của sự say đến chẳng còn biết trời đất gì nữa như ta đã thấy. Lại một điều lạ nữa: gừng và riềng, hai giống thật gần nhau, như là hai biến thể gần gũi đến có thể nhầm làm một của cùng một họ hàng thảo mộc. Vậy mà gừng thì mở đường cho sự nhớ (trong lễ thổi tai), còn người anh em của nó là riềng lại là vị thuốc tuyệt diệu dắt người ta vào cõi quên mịt mùng!

Hình như trong cái trò chơi kỳ diệu này của con người Tây Nguyên đối với sự sống có một triết lý nào đó thật uyên thâm. Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. Không biết nhớ thì hẳn nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức "nẻ cả lỗ tai" thì cũng chẳng thể nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau, quá ư phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu.
Nguyên Ngọc
(Trong bài viết có sử dụng một số tư liệu của Jacques Dournes)

Thanked by 2 Members:

#117

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 18/07/2014 - 06:49

ABC về tự do trí tuệ và kiểm duyệt
Nguyễn Đình Đăng


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

“Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người.”
Almansor (1821) – Heinrich Heine

A. Tự do trí tuệ là gì và tại sao nó quan trọng?

Tự do trí tuệ có nghĩa là bất kỳ một cá nhân nào sống trong xã hội loài người đều có quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin thuộc mọi quan điểm mà không hề bị bất cứ một trở ngại nào. Tự do trí tuệ vì vậy bảo đảm cho con người quyền tự do bộc lộ ý tưởng bằng nhiều cách khác nhau qua đó có thể làm sáng tỏ mọi khía cạnh của một vấn đề, một nguyên nhân, hay một trào lưu. Như vậy tự do trí tuệ có quan hệ mật thiết với tự do ngôn luận và tự do biểu hiện. Thiếu tự do trí tuệ xã hội sẽ dễ dàng bị một thiểu số nhân danh dư luận, nhân danh nhà cầm quyền, nhân danh các nhà tài phiệt, hay nhân danh một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội v.v. lừa dối. Của cải vật chất, tinh thần, tài nguyên, lãnh thố của quốc gia và cả sinh mạng con người dễ bị lợi dụng nhằm đạt mục đích ích kỷ của một số người hoặc các tập đoàn.

Tự do trí tuệ là một trong những hòn đá tảng xây nên nền móng của một xã hội dân chủ. Trong một xã hội dân chủ, mỗi người dân là người chủ của chính mình, là người điều khiển chính bản thân mình, chứ không phải ai khác. Nhưng để mỗi người dân có thể chịu trách nhiệm về việc đó, mọi công dân của xã hội phải được nhận đầy đủ thông tin. Tự do trí tuệ như vậy bao gồm tự do tàng trữ, tiếp nhận và phát tán thông tin.

Đối kháng với tự do trí tuệ là kiểm duyệt.

B. Kiểm duyệt là gì, nó xảy ra như thế nào và ai là người muốn kiểm duyệt?

Kiểm duyệt là sự ngăn cấm, loại bỏ, hay đàn áp những ý tưởng hoặc thông tin mà một số người thấy không chấp nhận được hoặc cho là nguy hiểm. Những người này có thể là một số cá nhân, nhóm người, hoặc một số người nhân danh nhà cầm quyền. Kiểm duyệt bắt đầu khi có một người nói: “Chớ có cho ai đọc quyển sách đó (hoặc mua số báo đó, hoặc coi bộ phim hoặc vở kịch đó, hoặc nghe bài hát hoặc bản nhạc đó, hoặc xem bức tranh đó) vì tôi không đồng ý.” Các nhà kiểm duyệt ép các cơ quan, trường học, nhà xuất bản, báo chí, tổ chức, công ty, viện nghiên cứu, v.v. loại bỏ các thông tin mà họ cho là không thích hợp hoặc nguy hiểm, không cho phép công chúng tiếp xúc với các thông tin đó. Kết quả là không ai có thể có cơ hội đọc hoặc xem các thông tin này để có thể tự suy nghĩ và phán xét đúng, sai, hay, dở về chúng. Các nhà kiểm duyệt muốn tự đánh giá, xếp loại, phân “luồng” thông tin cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, đã là công dân một xã hội dân chủ, pháp quyền, thì bất kỳ người nào cũng có quyền đọc, nhìn, nghe, và tuyên truyền các ý tưởng không vi phạm hiến pháp, cho dù nhà kiểm duyệt không muốn chấp nhận những ý tưởng đó đi chăng nữa.

Kiểm duyệt xảy ra khi các tài liệu bày tỏ ý tưởng như sách, báo, phim, ảnh, các tác phẩm nghệ thuật, v.v. (gọi chung là “tài liệu”) bị loại bỏ hoặc cất đi không cho công chúng xem. Một số cá nhân hoặc nhóm người “điểm mặt chỉ tên” những “tài liệu” mà họ phản đối. Trong một số trường hợp, các nhà kiểm duyệt cấm các trường học không được sử dụng các “tài liệu” này, cấm các hiệu sách, hiệu đĩa, hiệu băng video không được lưu giữ chúng, cấm các nhà xuất bản không được ấn hành chúng, cấm các galleries, các phòng triển lãm không được trưng bày chúng. Kiểm duyệt cũng xảy ra khi một số “tài liệu” bị hạn chế phạm vi sử dụng, chỉ được sử dụng đối với một loại công chúng dựa trên một số tiêu chuẩn về tuổi tác, hoặc các tiêu chuẩn khác (ví dụ sách báo, phim ảnh dành cho người lớn, v.v.).
Trong đại đa số trường hợp, nhà kiểm duyệt (hoặc người có tư tưởng kiểm duyệt) thường chân thành tin rằng kiểm duyệt có thể làm xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn, có thể bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên, và giữ gìn hoặc khôi phục cái mà nhà kiểm duyệt cho là “giá trị tinh thần”, “bản sắc dân tộc”, hay “thuần phong mỹ tục”, v.v. Các nhà kiểm duyệt có thể thật sự tin rằng một số “tài liệu” có chứa nội dung quá khích, chống lại, thậm chí phá hoại trật tự xã hội hiện hành tới mức không còn cách nào khác để ngăn chặn “tác hại” của chúng, ngoài việc “khai tử” cho các “tài liệu” này, tức là loại bỏ chúng, không bao giờ công bố chúng. Một số nhà kiểm duyệt khác thì lo ngại rằng những người trẻ tuổi hoặc yếu đuối hơn sẽ có thể làm điều xấu do bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng xấu. Thậm chí, vẫn còn không ít người tin rằng có một ranh giới hết sức rõ ràng giữa những tư tưởng “đúng đắn”, phù hợp với “đạo đức” và những tư tưởng “sai trái”, “đồi bại”. Những người này muốn đảm bảo rằng xã hội sẽ chỉ có lợi nếu tuân theo quan điểm của họ. Họ tin tưởng rằng một số cá nhân nào đó, hoặc một số tổ chức, cơ quan, đoàn thể nào đó, thậm chí toàn xã hội sẽ lâm nguy nếu một số tư tưởng riêng rẽ nào đó được lan truyền rộng rãi mà không bị ngăn cản.

Trớ trêu thay, điều mà các nhà kiểm duyệt thường không để tâm đến là kiểm duyệt không khác gì con dao hai lưỡi đối với chính các nhà kiểm duyệt. Cụ thể là, nếu như ngày hôm nay các nhà kiểm duyệt thành công trong việc loại trừ hay đàn áp các tư tưởng mà họ không thích, ngày mai những người khác có thể sẽ dùng chính cái tiền lệ đó để loại trừ hay đàn áp những tư tưởng mà các nhà kiểm duyệt hôm nay đang ưng ý. Cách đây 150 năm, trong tác phẩm Bàn về tự do (1859), John Stuart Mill [1] đã viết: “Nếu như toàn nhân loại, ngoại trừ một người, có chung một quan điểm, và chỉ có một người duy nhất có quan điểm trái ngược, thì bằng cách bịt miệng người đó, toàn nhân loại cũng chẳng có lý gì hơn là chính người đó, nếu y có quyền, sẽ dùng quyền lực của mình để bịt miệng toàn nhân loại.” Ông còn viết: “Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng quan điểm mà chúng ta đang gắng sức bóp chết là một quan điểm sai; và nếu chúng ta có chắc chắn đi chăng nữa thì việc bóp chết nó vẫn cứ là một điều quái gở.”

C. Mối quan hệ giữa kiểm duyệt và tự do trí tuệ

Những quyền mà các nhà kiểm duyệt thực hiện khi họ phát biểu quan điểm hoặc mối lo ngại của họ về các tác phẩm của đương sự (nhà xuất bản hay tác giả) cũng chính là những quyền mà đương sự đó cần được bảo vệ khi đối mặt với nhà khiểm duyệt. Điều đó có nghĩa là khi các nhà kiểm duyệt công bố cho công chúng biết sự phê phán của họ chống lại một số ý tưởng nào đó, họ đã thực hiện những quyền đúng như những quyền của người sáng tạo ra hoặc truyền bá các “tài liệu” mà các nhà kiểm duyệt phản đối. Điều đó cũng có nghĩa là, trong một xã hội dân chủ, quyền của các nhà kiểm duyệt trong việc phát biểu và thuyết phục người khác chấp nhận quan điểm của mình sẽ được luật pháp bảo vệ chừng nào quyền của những người phát biểu quan điểm đối nghịch cũng được luật pháp bảo vệ. Quyền của cả hai phía đều phải được luật pháp bảo vệ như nhau. Nếu không, không phía nào có thể tồn tại lâu dài được.

Lịch sử nhân loại đã làm chứng cho vô vàn các cuộc kiểm duyệt. Sách vở thường xuyên bị kiểm duyệt vì nội dung chính trị, tình dục, hoặc ngôn ngữ xúc phạm tới chủng tộc, dân tộc, văn hóa, giới tính, lập trường chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo của các nhóm người khác nhau. Các tài liệu bị coi là nhảm nhí, tục tĩu, khiêu dâm, hoặc không thích hợp cho thiếu nhi cũng thường bị kiểm duyệt. Từ khi nhân loại bắt đầu lưu giữ được các biểu hiện của mình bằng văn bản, nhiều người đã bị thiêu sống trên giàn lửa, bị ép uống thuốc độc tự tử, bị đóng đinh câu rút, bị giam cầm, đày ải, hành hạ, sỉ nhục chỉ vì những gì họ đã viết ra và tin theo. Sau đây chỉ là một vài ví dụ điển hình. Đầu năm 213 TCN Tần Thủy Hoàng định “xóa sổ” lịch sử bằng cách ra lệnh đốt tất cả sách sử trừ những sách sử của nhà Tần. Những ai tàng trữ hai bộ Kinh Thi vàKinh Thư hoặc sách vở của trăm nhà đều phải đem trình quan để đốt đi. Hai người dám bàn nhau về Kinh Thư, Kinh Thi thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Một năm sau Tần Thủy Hoàng ra lệnh bắt 460 Nho sĩ đem chôn sống. Heinrich Heine từng viết trong vở kịch Almansor (1821) của mình: “Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người”. Một thế kỷ sau, lời tiên trì của Heine đã thành sự thật ngay tại quê hương ông. Năm 1933 những người Đức Quốc xã bắt đầu bằng việc đốt sách tại Berlin. Trong số sách báo bị đốt đó có cả các tác phẩm của chính Heinrich Heine. Tám năm sau, Đức Quốc xã dựng nên các trại tập trung và lò thiêu người, mà điển hình là trại Auschwitz, nơi một triệu một trăm ngàn con người đã bị thiêu chết, trong đó 90% là người Do Thái. Tại Liên Xô trong những năm 1940 – 1950 Stalin đã ra lệnh đốt toàn bộ sưu tập sách của người Do Thái thuộc thư viện ở Birobidzhan – thủ phủ của khu vực tự trị của người Do Thái lúc bấy giờ, nằm ở Viễn Đông, giáp vùng Khabarovsk, Amur của Nga, và biên giới giữa Nga và Trung Quốc. Trong cuốn Khủng bố vĩ đại tác giả Robert Conquest cho biết khoảng 10 triệu người đã bị hành quyết hoặc chết trong các nhà tù dưới chế độ Stalin. Khi Stalin chết vào năm 1953, Liên Xô có 12 triệu người bị giam trong các trại tập trung.

Trong số những lời phản đối kiểm duyệt của các trí thức và nhân vật lừng danh trên thế giới trong lịch sử cận đại, hùng hồn nhất có lẽ là phát biểu của thủ tướng Anh Winston Churchill. Ông nói: “Các bạn hãy nhìn các nhà độc tài đang ngự trên bệ, bao bọc bởi những hàng lưỡi lê của quân lính và dùi cui của đội cảnh sát của họ. Thế nhưng con tim của họ đang bị bao trùm bởi một nỗi sợ hãi không nói được và không thể nói được nên lời! Họ sợ các lời nói và ý nghĩ. Những lời nói được phát ra bên ngoài, những ý nghĩ sôi sục bên trong, tất cả bỗng chốc trở nên mạnh mẽ hơn, chính bởi vì chúng bị cấm đoán. Những cái đó làm họ hoảng sợ. Chỉ một con chuột nhắt, một tư tưởng nhỏ xíu như con chuột nhắt, xuất hiện trong phòng đã khiến cả những thống lãnh quyền lực nhất rơi vào trạng thái hoảng loạn.”

D. Sự vô nghĩa của kiểm duyệt tự do trí tuệ trong thời đại internet

Trong bức thư ngày 7 tháng 1 năm 1794 gửi nhà độc tài Robespierre [2] vì đã đốt tờ báo Vieux Cordelier, nhà cách mạng và nhà báo Pháp Camille Desmoulins [3] đã trích dẫn lời của Jean-Jacques Rousseau: “Đốt không phải là câu trả lời”. Desmoulins đã phải trả giá cho câu nói của mình bằng chính mạng sống của ông: Ngày 31 tháng 3 năm 1794 ông bị bắt và bị đem ra xử tại “Tòa án cách mạng”. Tại đây ông bị buộc tội “gián điệp”, bị từ chối quyền tự bào chữa, rồi bị kết án tử hình ngày 5/4/1794 lúc ông mới 34 tuổi [4]. Mặc dù cái kết cục bi thảm ấy thường được lặp đi lặp lại nhiều lần trong lịch sử, câu trích dẫn lời Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ một chân lý hiển nhiên: “Không thể thuyết phục được một con người bằng cách bịt miệng anh ta“.

Lịch sử đã sang trang trong hai thập kỷ cuối và nền văn minh nhân loại đã bước sang một thời đại mới: thời đại của internet. Hơn cả máy in, điện thoại, radio, rồi vô tuyến truyền hình, internet là phương tiện lan truyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng mạnh mẽ nhất và dân chủ nhất mà con người từng được biết đến. Khi mà bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu (được nối mạng) trên thế giới cũng có thể gửi mọi thông tin, ảnh, phim video, âm thanh lên internet để toàn thế giới có thể đọc, xem, nghe được ngay tức khắc, kiểm duyệt dần dần trở nên bất lực, trơ trẽn, lố bịch, và vô nghĩa. Tự do ngôn luận dần dần trở thành cái gì đó không ai có thể hạn chế được.

Trong phần kết của bài báo “Những chiến sĩ của mặt trận tàng hình” [5] đăng tại Tạp chí Nga ngày 8/6/2006, tác giả Alexander Kolesnichenko đã kết luận: “Internet là phương tiện thông tin đại chúng tự do nhất trong các phương tiện từng tồn tại từ trước tới giờ. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ được lựa chọn trên internet không chỉ những gì để đọc, mà còn để nghe và nhìn nữa. Cứ mặc kệ cho nhà nước tiếp tục kiểm soát vô tuyến truyền hình và những tập đoàn đặc quyền đặc lợi tiếp tục chiếm hữu các tờ báo của họ. Như người đời thường nói, cứ kệ cho họ chiếu và viết những nhăng nhít mà chỉ có chính họ sẽ xem và đọc mà thôi.”

Tokyo 22/5/2006
Hiệu đính ngày 24/5/2009

Sửa bởi pth77: 18/07/2014 - 06:50


#118

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 18/07/2014 - 11:42

Ba ngôi của người
18 Tháng 7 2014 lúc 4:48

Bắt đầu màn Who's Who. Dù câu chuyện đây đó ngoài đời có, nhưng đọc vẫn có cái thú vị. Trích "Ba ngôi của người", Nguyễn Việt Hà, NXB Trẻ, 2014.

Tôi tuyệt không hề biết cái con bé tập tọng người mẫu trượt khỏi cuộc thi tuyển vai nữ dâm đãng trong cái phim chó chết ấy lại chính là người yêu của cháu tôi. Đây là bộ phim nhựa thứ hai mà công ty tôi đầu tư. Cái phim đầu “Trai sàn và thần chết” thành công tới mức chính tôi cũng choáng. Thằng bạn học từ hồi làm master bên Virginia gọi tôi chung vốn, lành nghề buôn phim Mỹ nhập, rủ rê. Rồi đây nó cũng rủ rê cướp mất người yêu của cháu tôi. Hôm chia lãi, nó đắc ý cười nhiều làm lưỡi bị chuột rút phải đi cấp cứu, rồi thành thằng nói ngọng. Trả lời phỏng vấn cho một tờ lá cải, tất nhiên không được đăng, nó bảo điện ảnh của nước ta như “nồn”. Phim lần trước tôi góp 50/50, còn lần này thì tôi cũng biết vài mánh rồi nên quyết định bỏ hai phần ba vốn. Kịch bản bám chặt thị trường, tạm có tên là “Hot girl nổi điên” do một thằng xuất thân tấu hài chấp bút. Thằng tấu hài cộng tác với một thiếu phụ sồn sồn, chuyên viết phóng sự hồi hộp gay cấn cờ bạc đĩ điếm vũ trường và một con bé gầy gò ế chồng sở trường phỏng vấn chọc ngoáy các ngôi sao showbiz. Cả hai con kền kền này đều khét tiếng là hung thần của giới kinh doanh giải trí vì tài năng thóc mách lôi chuyện kín của bọn ca sĩ diễn viên. Rồi đây một trong hai nàng bị đi tù, tội danh là “vu khống”, bởi chọc ngoáy đúng vào đời tư một nữ ca sĩ sắp thành con dâu của một ông tướng. Tôi ghê tởm khi phải đọc duyệt scenario nhưng biết sẽ là một thứ cực kỳ ăn khách. Nó có cái ồn ào vui tình huống của vỉa hè Sài Gòn, pha thêm rất nhiều những “xen” hung hăng đấm đá lẫn lộn quyến rũ cởi truồng. Đã thế, thằng tấu hài còn biết cách ăn cắp rất khéo vô vàn chi tiết đắt của các phim Hollywood. Về ăn cắp vặt thì người mình là tổ sư. Và quan trọng nhất nó xác định được rõ ràng đối tượng khán giả, đó là bọn “tin tin” nông nổi đầu đất của hôm nay. Bọn này hồi ỉa bô thì xem lăng nhăng hoạt hình, lớn hơn tí nữa thì cắm đầu vào truyện tranh. Tới khi hạ bộ lơ thơ lông thì há hốc mồm đần độn cười, say mê cặp danh hề Xuân Bắc Tự Long. Còn nghe Mr. Đàm nức nở, thì nước mắt nước mũi lã chã. Đại loại, ngu như một con milu.

Tôi quyết định đổ vào phim đấy 12 tỷ, chiến dịch PR bắt đầu ngay từ vòng sơ loại rùm beng diễn viên. Hôm casting thế quái nào tôi lại đến. Cũng có thể mấy hôm trước tôi vô tình liếc qua cái đống CV có dán ảnh quá khổ 6x12 lộn xộn chất cao như núi, tôi nhang nhác thấy những nét chân chất nồng nàn nửa quê nửa tỉnh rất đặc trưng cho mối tình đầu của tôi. Hình như tôi vẫn chưa quên được Hạnh, tôi vẫn cồn cào thèm nhớ em. Mưa đầu mùa ở Hà Nội là thời gian bắt đầu chúng tôi yêu nhau, yêu nhau thật bằng xương bằng thịt. Em quyến rũ tôi hay tôi quyến rũ em, bởi lúc ấy tôi chỉ là thằng nhóc mười sáu tuổi. Hơn nữa, vào khoảng cữ này của hai mươi năm trước, Hạnh quyết định vĩnh viễn xa tôi.

Căn phòng rộng chừng 70 mét vuông ở tầng ba, được thuê lại từ bọn cho thuê váy áo cưới được liều lĩnh gọi là studio, chật nghẹt đám nhóc mười tám đôi mươi. Tôi đến hơi trễ, lúc bất lực chen qua tầng một tôi đành phải gọi con bé Hiền giám đốc điều hành sản xuất trưởng ban tổ chức cuộc thi, nhân viên của tôi. Nó quá ngạc nhiên, lập tức cử hai thằng cao mét chín đồng phục loang lổ lính dù, một trước một sau mở đường cho tôi vào. Bọn trẻ bây giờ tồn tại bằng ồn ào truyền thông, nhất là đám hừng hực nhà quê đang tìm việc. Truyền hình quảng cáo chương trình thi tuyển diễn viên bằng clip 45 giây. Một Limousine Chrysler 300c chở đoàn sẽ là làm phim chạy ven bãi biển cỡ như Bali hay Phuket thẳng tiến tới bữa tiệc đầy hự tôm hùm. Con bé Hiền tinh quái còn tiếp thị trên báo giấy báo mạng mấy chiêu nhái kiểu bọn thi ca sĩ “ai đồ” và người mẫu “nếc tóp mo đồ”. Bọn trẻ phát điên kéo nhau xếp hàng đôi nộp lý lịch trích ngang. Một thế hệ rỗng tuếch vô đạo không lý tưởng, nhỏ dãi nhảy chồm chồm trước tiện nghi vật chất. Mà bình tĩnh sao được khi bọn nhà đài tưởng tượng hộ cho cái cảnh thiên đường. Hôm qua còn chân đất mắt toét nói ngọng, hôm sau đã nõn nà mặc đồ hiệu văng hê lô cưỡi du thuyền. Thằng đạo diễn tóc đuôi gà rất tự hào với nickname “khùng” hớn hở mời tôi ngồi vào chính giữa ban giám khảo. Tôi ừ, với điều kiện không được giới thiệu tôi là ai. Tôi nhấp một ngụm to nước lọc, tò mò muốn xem bọn thiếu nữ bây giờ “nổi điên” để thành “hot girl” như thế nào.

Giám đốc điều hành phần phim phọt của công ty tôi đã hơn ba mươi tuổi xấu gái chưa chồng nên đương nhiên sẽ tốt nghiệp Harvard về. Nó thô bạo bảo tay diễn viên đẹp giai vào vai giám khảo là Sạcly Trần hay Nguyễn gì đó, ngồi dịch ra để lấy chỗ cho tôi. Tất cả những đứa học giỏi chưa chồng mà lại tên là Hiền thì đều đại ác. Thằng đẹp giai chắc tủi thân lắm nhưng đành miễn cưỡng nhấc mông, mặt cao đạo nhăn nhó như bọn đương quan chức bị báo chí phát hiện mua nhầm phải bằng giả. Con bé Hiền kệ mẹ nó, hỏi tôi có muốn làm một ly whisky không. Tôi giữ hòa khí, lắc đầu. Thằng Sạcly quay sang làu bàu, nhỏ to nửa như phân trần nửa như ca thán với nữ giám khảo bên cạnh. Nàng này thì tôi biết, đã có một thời là ngôi sao rực sáng của điện ảnh phía Bắc. Cũng như nền điện ảnh mậu dịch quốc doanh, đã bất tài lại còn cao đạo, nàng đang chìm dần chìm dần, cố bồng bềnh mặt bằng vài phim truyền hình xoen xoét những con dâu chửi nhau với mẹ chồng. Ngôi sao giờ đây không còn cánh, núc ních tròn xoe toàn mỡ đốt thuốc liên tục. Tôi cũng châm thuốc hút. Cả bốn đứa giám khảo đều xuất thân diễn viên, ngay cả thằng đạo diễn cũng xuất xứ là công nhân nói, vậy lấy đâu ra trí tuệ. Con bé Hiền liếc nhanh tôi, rồi ghé tai thì thầm.

“Sếp phải thể tất chứ. Thì đây là casting diễn viên mà”.

Tôi trả lương con bé Hiền một tháng tròm trèm ba nghìn đô Mỹ, nó thông minh đáng giá từng xu.

Tôi chẳng buồn nhớ cũng như chẳng buồn kể về cái cuộc thi tuyển lố bịch xuẩn ngốc mà bọn trẻ bực tức đã giăng clip quay trộm lên đầy mạng, nếu như không có Mộc Miên. Em làm tôi khe khẽ choáng với vẻ ngoài cực kỳ trong trắng thiếu nữ nhưng lúc đi lúc đứng lại đẫm đầy nhục dục đàn bà. Áo sơ mi thụng bỏ lơi cúc phập phồng ngực, rất có gu với cái quần tất xanh đen bó chặt cặp đùi dài. Hồi Hạnh học năm cuối, vì chiều tôi hay cố tình khiêu khích tôi, cứ mặc đi mặc lại nhang nhác một kiểu này. Ngôi sao cụt cánh ra đề rất chi là ngu.

“Em hãy tưởng tượng là em vừa mỏi mệt đi diễn về. Khi mở cửa buồng ngủ thì thấy chồng em đang nằm trên giường với một cô gái khác”.

Đúng là cái ám ảnh của đời thực đã khoét sâu vào bộ nhớ của minh tinh cánh cụt. Tôi đã đọc đâu đó một trang báo mạng mang tên là con sâu cái kiến hay là tằm là bướm gì đấy, có bài viết nửa kín nửa hở về đời tư của minh tinh. Thằng chồng hành nghề họa sĩ thiết kế cùng đoàn, bị bắt quả tang khi đang lõa lồ trong phòng ngủ với một nữ đồng nghiệp, bạn nối khố của nàng. Con kh*n n*n kia cứ tưởng nối khố là phải chung khố. Khổ thân, thù dai như thế sao lúc ấy không cắt mẹ cái của nợ của thằng chó đi. Chỗ đấy có ưu điểm là rất thuận tiện cầm, và chưa kể, cái đấy bị cắt thì cũng không quá nguy hiểm. Báo chí tuần nào chẳng đăng tin. Các bác sĩ khả kính ở học viện quân y khẳng định, nối cái đấy dễ hơn nối khố. Đấy là chưa kể có đứa ngây thơ như thằng Đông quê “thái lọ” học cùng tôi. Năm thứ hai lúc vỡ tình, thằng Đông có nghẹn ngào lẩy “hai sắc hoa tigôn”. Nếu biết rằng mai em lấy chồng. Anh về cắt c*c thế là xong. Bọn cùng lớp thương thằng ngu ấy quá có họa thêm. Những tưởng ngày mai nó mọc lại. Ai ngờ chờ mãi cũng như không. Còn bây giờ, cuộc ly hôn đã gần sáu năm rồi mà minh tinh vẫn không quên. Freud tiên sinh dạy, ở những nghệ sĩ lớn, các đau đớn ám ảnh thường ẩn ức rồi bất chợt thăng hoa thành vấn nạn nghệ thuật. Hình như ẩn ức của nàng hôm nay đã xót xa thăng hoa.

Mộc Miên diễn xuất rất tệ, có lẽ do xem quá nhiều phim Việt trên tivi. Em nghiến răng nhíu m*y, vung chân vung tay đập phá. Trước em, đã có một con bé nói ngọng giọng Hải Dương vú quả mướp, hung hăng miêu tả nỗi đau bằng cách tự vả đôm đốp vào má mình. Em có vẻ còn nguy hiểm hơn. Tôi thật sự hoảng hốt khi Mộc Miên vớ ấm chè đang để trước mặt tôi. Thằng đạo diễn chánh chủ khảo rụng rời tóc đuôi gà hoa tay xì tốp, chắc nó đã tích lũy được nhiều thê thảm kinh nghiệm trên phim trường lúc bọn diễn viên được yêu cầu xuất thần hoá thân bỗng lên đồng tát cho vào mặt. Thiên hạ đồn rằng, đã là đạo diễn tài năng yêu nghề thì phải gẫy hết cả răng lẫn lợi. Không phải ngẫu nhiên mà tiền bảo hiểm thân thể cho đạo diễn ở ta giá suýt soát ngang bằng với võ sĩ đấm bốc. Tôi nhìn sâu vào mồm thằng đạo diễn nhân lúc nó mải giảng giải cho Mộc Miên về cách tiết chế cảm xúc, làm thế nào mà vừa bùng nổ như hỏa diệm sơn lại vẫn lạnh lẽo như núi băng Nam cực. Hai răng cửa thằng này đều sứt, chứng tỏ nó là một đạo diễn tâm huyết với nghề. Điện ảnh ở ta lụn bại chắc là do có quá nhiều những đạo diễn răng lợi đầy đủ.

Đến lượt thằng Sạcly ra đề, đã đẹp giai lại còn mặc áo “bo đì” ngồn ngộn như thế, thể nào mà chẳng hỏi về đồng tính. Bỏ mẹ, nó hỏi thật.
“Em nồng nàn yêu một người con trai được gần ba năm. Bỗng một ngày em mỏi mệt đi làm về, thì thấy anh ấy đang ở trên giường với một người đàn ông khác. Hãy diễn tả tâm trạng lúc ấy của em”.

Tất nhiên lại nghiến răng lại mím môi lại khóc lóc. Ra đề như vậy thì đến cỡ đại tổ sư Jodie Foster cũng phải câm lặng như cừu. Hai giám khảo còn lại không hẳn ngẫu nhiên đều chốc mép, cũng thăng hoa trên nỗi đau của riêng mình, tiếp tục hỏi tương tự như vậy. Thích thủ dâm đến thế nên bọn nghệ sĩ hay bị bệnh tay chân miệng. Tới lượt một nàng thành danh là biên kịch có biết làm thơ. Ngày xưa nàng là diễn viên Tuồng, còn ngày nay vừa hành nghề đầu nậu kịch bản truyền hình vừa kiêm cò đất, chuyên buôn đi bán lại mấy căn hộ chung cư cao cấp. Gần đây nàng cụt vốn vì liên tiếp bị ba trung tâm sàn giao dịch bất động sản lừa. Nàng the thé hỏi với ngữ điệu của người sắp chết đuối.

“Em hãy tưởng tượng là mình luôn nhân văn tin người. Em đem hết vốn liếng đầu tư vào một căn nhà mặt tiền phố cổ. Thế nhưng người ta đã nói dối em, căn nhà hoàn toàn chưa có sổ đỏ đang bị tranh chấp dữ dội. Hãy diễn tả sự tuyệt vọng ở em”.

Mộc Miên đương nhiên bị trượt, tổng số điểm của em quá thấp. Nàng giám khảo “sổ đỏ” chân thành thở dài, cho em năm cộng trên thang mười. Cả bốn đứa giám khảo đều ngu ngốc bằng nhau, đều không nhận ra ở em có cái chất “điên” khao khát muốn được làm nghề. Cái phim sắp tới không cần lắm bọn có tài, chỉ cần sự nồng nhiệt. Đến giờ giải lao, tôi vẫy tay gọi giám đốc Hiền.

“Anh chấm con bé thí sinh số 19”.

“Sếp à, nó chỉ được hai mươi mốt điểm”. Giám đốc phim của tôi tủm tỉm. “Ngoài kia còn mấy con bé trong trắng xếch xi lắm”.

“Anh về đây. Anh vẫn chấm nó. Cho nó số điện thoại cầm tay của anh”.

Thằng tóc đuôi gà luẩn quẩn cạnh tôi hóng hớt nghe lỏm. Phim này là phim nhựa đầu tay của nó. Suốt từ hôm nó biết tôi chọn nó làm đạo diễn, nó thăng hoa bay bay như Tôn Ngộ Không đang cân đẩu vân. Tôi đã xem bộ phim truyền hình mười lăm tập nó làm. Trước đó, tôi xem một bộ phim ngắn giả nhựa nó tranh giải nhưng trượt. Nó rất “khùng” và có tài năng. Một thứ tài năng của thời này, không thích tuẫn tiết vì nghệ thuật và sẵn sàng bán mình, tất nhiên là giá phải cực cao. Cái kịch bản lần này như là được viết riêng cho nó. Tôi đã xem trộm những phần nó sửa trên kịch bản rồi tâm huyết thêm vào. Tuyệt vời là sáng tạo. Nó quần quật thức đêm ròng rã gần hai tháng. Cái đuôi gà của nó xác xơ hẳn đi, âm thầm lẫn vào đó là mấy sợi bạc. Chưa nói đến chót vót nghệ thuật, chỉ cần mới là giải trí trò chơi thì sáng tạo luôn là nguyên lý khởi thủy. Đã thế, phim ảnh cũng giống hệt như bóng đá, không có người xem là vô nghĩa. Đừng so với văn chương hay hội hoạ. Tính thể loại khác nhau thì feedback khác nhau. Mấy đạo diễn già nhạt hoét làm ra vẻ “gạo cội”, hồi xưa suýt đúp khi học ở Vờ Gích, bây giờ trịch thượng ra mặt khinh bỉ phim thương mại của những đạo diễn trẻ. Mấy tay ấy không thể hiểu một điều đơn giản rằng, ở sự phát triển lành mạnh, muốn chứng minh cái kia là dở thì cái của mình phải hay đã. Còn không, chỉ là sự đố kỵ bì tỵ đầy nhỏ mọn tiểu khí. Cái Hiền quay sang nói nhỏ với tóc đuôi gà và thằng đạo diễn cố tình nói to cho tôi đủ nghe.

“Sếp của em tinh mắt thật. Thí sinh đó hoàn toàn hợp vai con Lan “cave”. Phụ thôi, nhưng so thời lượng với các vai phụ khác thì thế cũng là nhiều. Một vai diễn có thân phận”.

Bố ông, ông láu lắm, điên đếch gì m*y. Có điều thằng này nói đúng. Ở Việt Nam, các nữ diễn viên cả chuyên lẫn không chuyên khi vào vai cave đều “hạp”. Thằng Sạcly và minh tinh cụt cánh tự ái thực sự. Hai đứa làu bàu với nàng “sổ đỏ” những là trọc phú những là ngoại đạo lại thích tỏ vẻ chuyên môn. Tôi điếc, hy vọng thù lao phong bì sẽ giảm nhiệt mấy bầu máu nóng đang chính trực sôi sùng sục. Tôi đứng lên ra về, vẫn phải đi cùng hai thằng vệ sĩ mét chín. Đã gần ăn trưa mà đám nhóc càng ngày càng đông. Chỉ số hoang tưởng của bọn trẻ Việt chắc phải top 3 thế giới. Cái Hiền mồ hôi mồ kê đuổi theo phía sau, nó hổn hển.

“Thí sinh số 19 muốn gặp anh bất cứ lúc nào. Sếp cho nó cái hẹn để nó phấn khởi”.

“Được. Trưa mai, nhà hàng Nhật, Mai Hắc Đế”.

Sáng ngày kia tôi phải bay Phú Quốc, thằng Thông con ông Thống bộ trưởng rủ tôi cùng làm thịt một cái ngân hàng nhỏ. Hai bố con nhà đó cùng ngành, nên có tốn kém cắn răng rửa tiền thì bắt buộc phải có người thứ ba. Còn sang tuần, tôi phải đi Mỹ bốn ngày, theo đoàn thương gia tháp tùng thủ tướng. Lịch của tôi tràn ngập bận.

Mộc Miên đến đúng hẹn, đúng từng phút luôn. Phụ nữ khi đã ham muốn quyết liệt thì thường thăng hoa chính xác. Nàng mặc một cái đầm nhã, nhái hàng hiệu. Cổ khoét rộng lộ ngấn ngực vừa phải. Ở chỗ khe trũng mịn màng lộ một mặt dây chuyền vàng Tây đì zai chữ V&M rất tinh tế. Mãi mãi sau này tôi mới biết đấy là quà tặng của thằng Kun. Ôi, cháu tôi, c*t thật.

“Em không biết ăn mấy món này đâu”.

Một câu hơi quê nhưng giọng thì thật Hà Nội. Có lẽ nhà nàng ở ngoại thành, đại loại là quanh khu tập thể Thanh Xuân gần gần Hà Đông chẳng hạn.

“Anh cũng ghét đồ uống Nhật nhưng chẳng biết chọn quán nào”.

Bọn Nhật lùn bày biện thức ăn thì điệu đà chẳng kém gì người Huế. Sashimi xanh xanh đỏ đỏ xếp đầy một khay giả sơn mài hình dáng như cái thuyền. Tôi không uống sake, lấy một chai Ballantines 17, rót cho em ngang suất của tôi. Mộc Miên vô thức cầm chai whisky, vẻ buốt nhói chợt như nhớ về một cái gì đó. Đàn bà khi phải ân hận thì trông cũng rất dâm.

“Em xem phim “Sắc, Giới” chưa”.

“Em xem cả “Brokeback Mountain” rồi. Còn “Lust, Caution” thì em thích trường đoạn Thang Duy hát ở cái nhà hàng giống như thế này cho cái ông người tình”.

“Thằng ấy là trùm cớm, còn anh là thằng trùm tội phạm”.
Nàng cười hồn nhiên, thông minh lắm. Tôi thích đàn bà dày trải nghiệm nhưng ghét bọn con gái thành thạo. Tôi cảm tình em, con gái thì phải thơ nhưng đừng ngây. Ngoài biết chuyện khoe ba vòng thì phải biết dịu dàng khoe kiến thức. Nàng rất giống Hạnh của tôi.

“Em đã từng đóng phim chưa”.

“Em cũng thử vài lần. Có một lần em suýt được vai chính nhưng cuối cùng bọn em cãi nhau”.

“Thằng già đó chắc là đạo diễn”.

“Không, anh ấy là biên kịch, xuất thân nhà văn”.

“Ừm. Anh ta có vợ già và hai đứa con lít nhít bé”.

“Sao anh biết. Hai đứa con thì không bé lắm nhưng vợ thì bằng tuổi”.

Nàng vừa trả lời vừa chân thành ngạc nhiên, không diễn. Đàn bà còn biết ngạc nhiên là còn trong trắng.

“Rồi thằng già đó rủ em đi nhà nghỉ”.

Nàng nhìn tôi. Có cái gì đấy bàng hoàng khi phải đối diện với trắng trợn.

“Anh xin lỗi, anh không muốn tò mò vào chuyện riêng tư của em. Mà thôi, thực ra câu này cũng là câu cưa gái. Anh không cưa em. Anh gặp em vì thấy em hợp với cái phim của anh”.

Tôi rút tập kịch bản đã được ép bìa giả da để lên mặt bàn, nàng háo hức nhìn. Tôi không hiểu tại sao bọn giám khảo hôm qua không cho đám dự thi diễn xuất thẳng từ những trích đoạn ở kịch bản này. Ngu thì cũng ngu vừa vừa thôi chứ.

“Trước khi đến gặp anh, em có hỏi một vài người về anh”.

“Bọn nó bảo sao”.

“Tất cả đều nói là anh ghê gớm đến khủng khiếp”.

“Có thể tất cả cái bọn em gặp đều đang nợ tiền anh. Em đừng có nghe đài địch”.

Nàng cười, vẻ mặt đã bớt hồi hộp. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết lúc ấy nàng đã biết thằng Trần Khôi Việt là cháu của tôi không. Thằng Kun khẳng định là không. Tôi và Mộc Miên song ẩm hết gần nửa già chai Ballantines 17. Chẳng có gì sau đấy cả, vì hôm ấy càng uống bỗng dưng tôi càng buồn. Lâu lắm rồi, tôi mới da diết dằn vặt nhiều như thế. Thằng Kun bảo nhiều lúc tôi cũng sến khủng khiếp. Nếu Mộc Miên không giống Hạnh, thì hôm ấy tôi đã rủ nàng về khách sạn của tôi. Sau Hạnh, không biết bao nhiêu lần tôi đã ngủ với bao nhiêu đàn bà. Hình như Mộc Miên cũng có ý quyến rũ tôi, ngấn ngực của nàng không vô tình lắm, lồ lộ. Mà tôi cũng đếch cần các nàng nghĩ ngợi gì, có điều, tôi chưa muốn thôi. Tôi tự hứa thầm với mình, sau chuyến đi Mỹ về tôi sẽ rủ bằng được Mộc Miên đi làm tình.

Sửa bởi pth77: 18/07/2014 - 11:43


Thanked by 1 Member:

#119

AnhTanh



 

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 65 Bài viết:
  • 74 thanks

 

Gửi vào 18/07/2014 - 11:49

Bệnh Lao chữa bằng mồm


"Chữa khoán bệnh lao, 10 ngày khỏi hẳn'''', cái giòng chữ đỏ trên vải trắng này trước cửa 1 hiệu thuốc mà các ngài đã biết, chắc hẳn cho đến chết, tôi cũng không quên.
Là vì nhờ đó, tôi đã được đi 1 chầu hát che tàn ba chục bạc. Tiền chi là của thầy lang bất hủ ấy, mà người có công ... chơi sỏ thầy lang, là bạn tôi, anh chàng Cờ.
Ở trọ trên gác nhà thầy lang ấy, Cờ đã vẫn phải chịu cái khổ hình hàng ngày nghe những lời khoác lác bịp khách bệnh của thầy lang. Một hôm Cò nói với anh em: '''' Tức quá, nhà nước sao lại không đánh thuế bằng cách bán vé chợ hay treo môn bài vào mồm những thằng nói phét! Bọn mình không nên bỏ qua mối lợi ấy. Ít ra, nó cũng phải nộp thuế cho anh em chúng mình.'''' Chúng tôi nhất loạt vỗ tay khen. Cờ, đắc chí, thêm: '''' Hèn đến đâu nữa thì nó cũng phải nộp mình chầu hst mới được!'''' Câu nói ba hoa trong 1 phủ hoá dại, ai dám ngờ Cờ làm thành bằng được ra sự thật mới nghe.
Tối hôm ấy, Cờ lại tìm anh em chúng tôi, bảo:'''' Nào, bọn mình anh nao muốn được đi hát thì cứ việc nghe theo cẩm nang của tôi''''.'''' Sau, anh ta ghé tai tôi thì thào năm phút.
Nửa giờ sau, khi anh Cờ về nhà rồi, hai chúng tôi từ một chiếc xe hơi (xe tắc xi đấy thôi ạ) bước xuống, mạnh bạo tiến thẳng vào hiệu thuốc. Tôi trỏ anh Quyền, giới thiệu với thầy lang:
- Thưa ngài, vì vẫn đi lại với ông Cờ ở trên gác nên tôi rõ cái tài chữa bệnh của ngài. Đây xin giới thiệu với Ngài, ông Tế, thư kí riêng của quan chánh sở liêm phóng.
Thày lang vừa kịp cúi đầu bắt tay kêu ''''Hân hạnh'''' thì Quyền đã hấp tấp:
- Rõ phúc quá Ngài lại có nhà, xin mời ngài ra xe hơi ngay cho.
- Bẩm để đi đâu có việc gì?
- Cô đầm con gái nhà quan chánh tôi mắc bệnh lao, đôsc tờ tây cũng chịu, thật là Thập tử nhất sinh rồi, mời Ngài đến thăm ngay.
Thầy lang tái hẳn mặt, ấp úng:
- Vâng vâng. Xin để chúng tôi dặn 1 việc với người nhà đã.
Thế là thầy lang chạy vội lên gác, phòng anh Cờ. Ngồi chờ dưới, chúng tôi lắng nghe giọng anh Cờ với thầy lang thế này:
- Thế kia à? Thôi thì nhà lang gặp vận tấy rồi! Mề đay kim khánh tới nơi rồi! Giầu to tới nơi rồi! Còn gì bằng được ông Chánh mật thám gọi đến chữa cho con gái nữa.
- Nưng mà ...
- Đi đi thôi
- Nhưng mà ...
- Đi ngay đi chứ còn chờ gì!
- Nhưng mà ...
- Lại còn nhưng mà cái gì?
- Nhưng mà ... Nói bác tha cho, chữa làm sao được mà dám đi!
- Ô lạ! Thế cái quảng cáo to hơn cái mẹt treo ở cửa hiệu...
- Thì bác cũng thừa biết, nhà buôn phải quảng cáo ... phải nói quá...
- Đã đành. Cứ đi xem sao.
- Chết! Đi thế nào được!
- Ô! Thế thì tù rồi! Cạo đầu đến nơi rồi!
- Lạy bác ...
- Hỏng rồi!! Cơm vôi, sàn lim đến nơi rồi!
- Bác làm ơn, lạy bác...
- Ít nhất ba tháng rồi!
- Lạy bác, bác làm ơn nghĩ có cách nào không ...
Một lúc im lặng khá lâu, xong lại thấy tiếng anh Cờ:
- Cũng không khó gì. Cái bọn ấy thì cứ tiền thì êm. Đành chịu thiệt vài chục vậy.
Tiếng giầy xuống gác. Loảng soảng, thìa khoá va nhau trước cái két bạc rồi anh Cờ ra.
- Thưa ngài, nói ngài tha thứ,quảng cáo vẫn phải thế chứ ...
Anh Quyền đứng phắt lên:
- Ấy chết!
- Chính thế ạ. Ngài về thưa với quan trên cho là ông chủ chúng tôi đi chữa bệnh tỉnh xa ba hôm nữa mới về.
- Ooi, ngài làm như là ...
- Thôi, phiền ngài, chúng tôi xin có chút vi thiềng gọi là trả ngài tiền xe.
Quyền, còn ngần ngừ mãi mới trông trước nhìn sau, rồi bỏ túi cuốn giấy bạc.
Tôi không cần thuật lại bao nhiêu cái khoản khoái lạc chúng tôi đã hưởng ở xóm ả đào. Nhưng phải thuật lại 1 chuyện xảy ra ngay hôm sau tại nhà thầy lang thì các ngài mới biết thầy là bất hủ thật.
Chúng tôi muốn ngắm nghía cái bộ mặt tán tài ấy xem nó có những ''''biến chứng'''' ra sao hay không.
Hôm sau, tấm vải quảng cáo bệnh lao đã không thấy treo ra nữa. Nhưng khi vào hiệu, tôi thấy mấy ông già với 1 người trẻ tuổi mặt xanh nhợt xem ý là bọn trọc phú nhà quê.
Cặp kính tắng nghiêm trang trên sống mũi, cái hình thù thì lùn tịt, lắt choắ, thầy lang đi lại trong hiệu, nện gót giầy lộp cộp mà thuyết khách 1 cách oai hùng.
Các ngài có dám đóan thầy lang ấy nói những gì? Đây:
- Các cụ phải biết. Số tiền ấy không to đâu. Mệnh người là trọng.Người làm ra của chứ chẳng phải của làm ra người. Kém 1 đồng cũng không được. Cứ xin các cụ đúng một trăm. Đó là giá đặc biệt cho đồng bào An Nam ta đấy thôi, chứ người Tây, dưới ba trăm tôi không nhận chữa. Không tin các cụ lại hỏi ngay quan chánh mật thám mà xem.! Hôm qua cho gọi tôi mà dưới ba trăm nên tôi không đến chữa cái bệnh lao cho con gái ngài đấy.
Rõ thật khốn khổ thay cho anh Cờ. Bỗng không, được hưởng chầu hát ba chục bạc mà vẫn chưa được hả.
Thiên Hư - Vũ Trọng Phụng

Thanked by 1 Member:

#120

pth77



 

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

 

Gửi vào 19/07/2014 - 04:35

Từ một phiên tòa phát xít
Bùi Văn Nam Sơn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



"Điều tôi đã làm là lay động các giới sinh viên không phải bằng tổ chức nào cả mà chỉ bằng sức mạnh đơn thuần của lời nói, không phải để kích động bạo lực mà để nhận rõ tác hại nghiêm trọng của những gì đã gây ra cho đời sống chính trị của đất nước. Việc quay trở lại với những nguyên tắc đạo đức sáng tỏ, với nhà nước pháp quyền, với lòng tin tưởng lẫn nhau trong nhân dân không phải là cái gì bất hợp pháp, trái lại, là khôi phục pháp luật. Áp dụng mệnh lệnh nhất quyết của Kant, tôi tự hỏi điều gì sẽ diễn ra nếu châm ngôn hành động chủ quan ấy của tôi trở thành một quy luật phổ quát. Vậy, chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi ấy thôi: trật tự, an ninh và lòng tin ắt sẽ trở về cho nhà nước và đời sống chính trị của chúng ta".

Đó là lời nói sau cùng của giáo sư Kurt Huber (1893-1943) trước tòa án phát xít Đức ngày 19.4.1943. Ông bị kết án tử hình và bị hành quyết ngày 13.7 cùng năm. Ngày nay, quảng trường trước đại học Ludwig Maximilians cổ kính ở München (Đức) được mang tên "Quảng trường Giáo sư Huber" để tưởng nhớ ông.
Đáng chú ý trong lời nói sau cùng này là ông nhắc đến "mệnh lệnh nhất quyết" hay quy luật đạo đức nổi tiếng của Kant như là nguyên tắc hướng dẫn suy nghĩ và hành động. Một luận điểm triết học tưởng như cao xa, trừu tương đã đi vào cuộc sống đầy huyết lệ như ngôi sao Bắc đẩu dẫn đường! Đây chính là phiên bản thứ hai của "mệnh lệnh nhất quyết" như là nguyên tắc nền tảng cho quan hệ đạo đức giữa những cá nhân với nhau và với đồng loại của mình: "Hãy hành động sao cho lúc nào cũng xem người khác là mục đích tự thân chứ không đơn thuần là phương tiện". Mệnh lệnh nhất quyết và việc thừa nhận phẩm giá của con người trong mọi lĩnh vực đời sống là hai mặt của một đồng tiền. Mang lại giá trị và hiệu lực thực tế cho quy luật đạo đức nền tảng ấy cùng với phẩm giá của con người cá nhân là đụng chạm đến những vấn đề thiết cốt nhất trong quan hệ giữa người với người cũng như giữa những quốc gia với nhau từ giác độ những yêu sách chính đáng khác nhau của đồng loại. Trong tinh thần ấy, triết thuyết của Kant, nhất là triết thuyết giáo dục, đặt cơ sở cho việc giải quyết vấn đề nóng bỏng hiện nay về hòa bình và sống chung hòa bình giữa các quốc gia và các nền văn hóa. Theo cách nói của Kant, "bậc vương giả" hay "những dân tộc vương giả" - tức những dân tộc biết tự cai trị mình theo các quy tắc của sự bình đẳng - cần lắng nghe các nhà triết học. Khi phác họa các "điều khoản" cho một "nền hòa bình vĩnh cửu", Kant nửa đùa nửa thật đề nghị ghi thêm một "điều khoản bí mật", đó là: "Các quốc gia có vũ trang cần phải tham vấn châm ngôn của các nhà triết học về các điều kiện để bảo đảm hòa bình". Tại sao phải "bí mật"? Vì, một mặt, do bản chất tự do của công việc suy tưởng, biết rằng "việc nắm giữ quyền lực khó mà không làm hư hỏng phán đoán tự do của lý tính", nên, khác với các phe nhóm hay tầng lớp có quyền lực khác trong xã hội, các triết gia "chứng minh một cách hoàn toàn không khả nghi rằng họ chỉ quan tâm đến chân lý mà thôi"! Mặt khác, nếu không thể "mua chuộc" được, thì cũng thật bất tiện khi yêu cầu kẻ cầm quyền kiêu căng phải công khai "hạ cố" tham vấn các triết gia! Cho nên, điều kiện duy nhất để thực hiện "điều khoản bí mật" ấy chỉ là: hãy khôn ngoan để cho các triết gia được ăn nói tự do và công khai.

... ĐẾN "TUYÊN NGÔN PHỔ QUÁT VỀ SỰ KHOAN DUNG" CỦA UNESCO (1995)

Nếu Kant được xem là "người cha tinh thần" của Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc ngày nay, thì, may thay, "điều khoản bí mật" nói trên (trong danh tác gần cuối đời: "Hướng đến nền hòa bình vĩnh cửu", 1797) đã được lắng nghe và "công khai hóa" trong Tuyên ngôn về những Nguyên tắc của sự Khoan dung (The Declaration of Principles on Tolerance) được mọi thành viên của UNESCO thông qua tại Paris năm 1995. Một năm sau, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc yêu cầu mọi quốc gia thành viên áp dụng Tuyên Ngôn này trong phạm vi từng quốc gia. Nội dung chính yếu của Tuyên Ngôn thật ra không gì khác hơn là... triết học Kant được chính thức hóa bằng văn bản của cơ quan quốc tế có thẩm quyền! Vì tầm quan trọng của nó, xin trích đoạn như sau:

1. "Khoan dung là tôn trọng, chấp nhận và tán thưởng sự đa dạng phong phú của những nền văn hóa trong thế giới chúng ta, cũng như những hình thức diễn đạt và những phương cách làm người khác nhau. Nó được hình thành từ tri thức, sự cởi mở, truyền thông và tự do tư tưởng, tự do lương tâm và đức tin. Khoan dung là hài hòa trong sự khác biệt. Nó không chỉ là nghĩa vụ đạo đức mà còn là đòi hỏi chính trị và pháp lý. Khoan dung là đức tính mang lại hòa bình, góp phần thay thế văn hóa chiến tranh bằng văn hóa hòa bình".

2. "Khoan dung không phải là nhân nhượng, hạ mình hay quỵ lụy. Khoan dung, trên hết, là thái độ tích cực nhờ nhìn nhận những nhân quyền phổ quát và những quyền tự do cơ bản của người khác. Nó tuyệt nhiên không được sử dụng để biện minh cho việc vi phạm những giá trị nền tảng này. Sự khoan dung phải được mọi cá nhân, mọi nhóm và mọi quốc gia thực hiện trên thực tế.

3. "Khoan dung là trách nhiệm đề cao nhân quyền, sự đa nguyên (kể cả đa nguyên văn hóa), nền dân chủ và chế độ pháp quyền. Nó bác bỏ chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chuyên chế và khẳng định những tiêu chuẩn do những cơ quan nhân quyền quốc tế đề ra.

4. "Nhất quán với việc tôn trọng nhân quyền, việc thực hiện sự khoan dung không có nghĩa là dung thứ sự bất công xã hội, từ bỏ hay làm suy yếu những xác tín của mỗi người. Nó có nghĩa là mỗi người được tự do tuân theo những xác tín của mình và chấp nhận việc những người khác tuân theo sự xác tín của họ. Nó có nghĩa là chấp nhận sự thật rằng con người, tuy khác nhau về bề ngoài, hoàn cảnh, tiếng nói, hành vi và giá trị, đều có quyền được sống trong hòa bình và được là chính họ. Nó cũng có nghĩa là không ai được áp đặt quan điểm của mình lên những người khác".

Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc, tháng 9.2000 cũng viết về sự khoan dung: "Con người phải tôn trọng lẫn nhau trong tất cả mọi sự đa dạng về lòng tin, văn hóa và ngôn ngữ. Không nên sợ hãi và đè nén những khác biệt trong lòng cũng như giữa những xã hội với nhau, trái lại, cần trân quý chúng như là tài sản quý giá của nhân loại. Cần phải tích cực xúc tiến nền văn hóa hòa bình và đối thoại giữa mọi nền văn minh".
Khó hình dung làm sao những nhận thức cao đẹp ấy có thể thành tựu mà không có phần đóng góp quyết định từ nhân cách và sự nghiệp của Immanuel Kant. Và thật dễ hiểu tại sao những thế lực cường quyền lạc hậu, hắc ám sớm muộn sẽ trở thành kẻ thù chung của nhân loại.

Bài đã đăng trên Người Đô Thị, Bộ mới, số 25, 17.07.2014


Sửa bởi pth77: 19/07/2014 - 04:37







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |