Jump to content

Advertisements




“3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ đúng hay sai?


84 replies to this topic

#1 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 06:08

“3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ đúng hay sai?

Sau đây là ví dụ 146 trong chương 25 : “Luận Hành Vận“ của cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ của Từ Nhạc Ngô:

“146 – Như mệnh của Hoàng Đô Đốc:

Kỷ...................Kỷ...................Giáp...................Bính
Mùi.................Tị.....................Dần....................Dần

Các đại vận:
Mậu Thìn / Đinh Mão / Bính Thìn / Ất Sửu / Giáp Tý / Quý Hợi / Nhâm Tuất

Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần, Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy, duy chỉ có Hỏa nhiều thì gặp tai họa bị cháy thiêu. Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ thiên lệch, quý nhiều liền muốn nối gót, hành vận vẫn cần đất của Ấn Kiếp. Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp, tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy“.


Rõ ràng tác giả viết: “Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần“ nên tác giả kết luận: “Nhật Nguyên quá vượng“, nghĩa là Thân quá vượng. Bởi vì tác giả tin vào câu mà các cổ nhân để lại là : “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhận“ mà ở đây Dần là chi Lộc của Giáp (tức Giáp ở trạng thái Lộc tại Dần).

Chính vì cái câu “Bất Hủ“ không thể sai được này nên cho dù thực tế cho biết qua 4 vận “Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp“, tức là can chi đều theo phương Thủy Mộc nên có theo trường phái Can trọng hay Chi trọng đều phải kết luận Thủy và Mộc của Tứ Trụ này phải là hỷ dụng thần, tức Tứ Trụ này Thân phải nhược. Chính vì vậy tác giả không còn cách nào khác đành phải “Đẽo, Gọt“ cho nó phù hợp với Thân Vượng như sau:

Đầu tiên tác giả cho rằng : “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“, có nghĩa tác giả cho rằng Thân vượng mà có Thực Thương thì Thân càng vượng càng đẹp, tức là theo tác giả thì Tứ Trụ này có Thân vượng vẫn có thể lấy Tỷ Kiếp làm hỷ dụng thần cho dù Tứ Trụ này không phải ngoại cách, rõ ràng đây là một điều ngụy tạo Trắng Trợn. Chưa hết tác giả còn cho rằng: “Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết…“ trong khi Hỏa nắm lệnh còn có Bính thấu và được Mộc sinh. Nói chung chúng ta thấy tác giả thỏa sức “Đẽo, Gọt“ cứ như xung quanh không có ai cả ấy.

Điều này đủ để chứng minh câu “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhân“ là sai. Vậy thì “Phương Pháp Xác Định Thân Vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi liệu có thể giải đáp để cho thực tế phù hợp với ví dụ này hay không?

Theo phương pháp của tôi thì sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Thân Mộc lớn hơn Hỏa trên 1 điểm vượng). Nếu điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa chỉ cần tăng thêm 0,09 đv thì Tứ Trụ này sẽ trở thành Thân Nhược, vì lúc đó Mộc có 19,04 đv không lớn hơn Hỏa 1 đv (Hỏa có 17,96 + 0,09 = 18,05 đv).

Chỉ cần dừng ở đây cũng đủ để chứng minh Tứ Trụ này có Thân chỉ hơi vượng chứ không như sách đã kết luận “Nhật Nguyên quá vượng“. Theo lý thuyết của tôi thì Chi ở trạng thái Lộc hay Nhận chỉ được thêm 4,05 hay 4,3 đv nên nếu can ở trạng thái Tử, Mộ hay Tuyệt thì chi Lộc hay Nhận của nó cũng không thể gấp 3 lần can được còn nếu can được lệnh hoặc ở trạng thái suy hay bệnh thì chi Lộc hay Nhận không thể gấp 2 lần can được.

Nhưng còn để cho Tứ Trụ này phù hợp với thực tế thì ta cũng phải “Đẽo, Gọt“ như thế nào để cho Thân phải nhược một cách hợp lý chứ không thể “Gọt, Đẽo“ mà lại “Trắng Trợn“ như sách này được.

Từ trước tới nay tôi mới tìm thấy các ví dụ chứng minh được can chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh được cho nhau cũng như điểm vượng của Kiêu Ấn trong vùng tâm có thể sinh được ½ đv của nó cho Thân chứ chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh được Chi sinh được cho Chi cũng như Can có thể sinh được cho Can.

Tương tự như can chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau thì ở ví dụ này ta thấy Dần trụ ngày có Dần bên cạnh là trụ giờ trợ giúp nên ta có thể đưa ra giả thiết nó cũng có thể sinh được cho Tị là trụ tháng ở ngay bên cạnh một số đv nào đó là hợp lý.

Để đơn giản ta đưa ra giả thiết :

Nếu 1 chi A trong Tứ Trụ có chi bên cạnh là B mang hành sinh cho nó hay giống nó (cho dù chi B ở trong hợp hóa hay không hóa, nếu đã hóa thì hành mới và hành cũ đều có tính chất giống nhau) mà chi A lại có thể sinh được cho chi C bên cạnh nó thì điểm vượng trong vùng tâm của hành chi C sẽ được thêm ít nhất 0,09 đv (để đơn giản ta lấy 0,1 đv) chỉ khi chi A và C không bị khắc gần hay trực tiếp hay ở trong hợp (trừ khi Chi chủ khắc trực tiếp ở trong hợp).


(Vì ở đây mà lấy điểm vượng của chi Dần trụ ngày sinh cho điểm vượng của Tị trụ tháng thì phức tạp mà chưa chắc đã đúng.)

Nếu sử dụng giả thiết này thì Hỏa có 17,96 đv + 0,09 đv = 18,05 đv. Theo lý thuyết của tôi thì với số điểm này Thân chỉ có 19,04 không lớn hơn Hỏa 1 đv nên Thân không thể được coi là vượng được và dĩ nhiên như vậy thì Kiêu Ấn, Tỷ Kiếp phải là hỷ dụng thần của Tứ Trụ này nên nó phù hợp với thực tế của ví dụ này.

Sửa bởi VULONG777: 23/01/2014 - 06:13


Thanked by 2 Members:

#2 NgoaLong

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1746 Bài viết:
  • 4752 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 07:58

NL nghĩ thế này:

Đoạn trên có lẽ là từ sách được dịch lại, vì vậy mà cũng có thể là dịch không chuẩn theo ý của tác giả. Với lại, đôi khi "văn bất tận ý", vì viết có giới hạn nên không thể trình bày cặn kẽ từng lời, từng bước được. Thành ra, người đọc không nên quá cố chấp vào câu chữ và không nên quá tin tưởng/lệ thuộc vào đó để rồi dẫn đến sai lầm, mà thay vào đó vừa đọc vừa tra ngẫm.

Đọc thoáng qua đoạn trên và liếc qua Bát Tự thì theo NL hiểu cái ý đại khái là: Giáp có Dần, tức là có gốc sâu (không chỉ 1, mà có đến 2 Dần luôn) thì mạnh và vững chắc, rất vượng (đó là nói riêng về Thân- tức Giáp Mộc, khi đó chỉ mới xét đến Mộc thôi chứ chưa xét đến các hành khác). Rồi xét thêm nữa sẽ là .... nhưng đồng thời trong Trụ 2 hành Hỏa và Thổ cũng nhiều và mạnh nữa (Hỏa đương lệnh, còn Thổ thì nhiều và lại có gốc và được sinh). Thành thử tuy Mộc khá mạnh, nhưng phải tiết khí và bị Tài (Thổ) khắc nên suy ra tuy Thân vượng/mạnh nhưng vẫn cần phù trợ (nói cách khác là tuy vượng nhưng vẫn coi như là Nhược).

Đọc sách của Thiệu Vĩ Hoa và Trần Viên cũng có thấy nói kiểu đó. Như là Thân vượng, nhưng cuối cùng vẫn coi là Nhược. Tức là khi xét riêng Thân thì nó rất vượng đó, nhưng khi xét tổng thể trong Bát Tự thì nó lại trở thành thành Nhược. Đại khái vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 23/01/2014 - 06:08, said:

Chưa hết tác giả còn cho rằng: “Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết…“ trong khi Hỏa nắm lệnh còn có Bính thấu và được Mộc sinh. Nói chung chúng ta thấy tác giả thỏa sức “Đẽo, Gọt“ cứ như xung quanh không có ai cả ấy.

Đoạn này NL hiểu khác. Theo NL thì tác giả so sánh Thực với "yếu tố" khác, chứ không phải chỉ đơn độc 1 mình nó. Ở đây Thực đúng là khá có lực, nhưng nếu so với Tài thì Tài mạnh hơn Thực. Bởi Tài có Kỷ Kỷ và có gốc trong Mùi, lại còn được Thực sinh cho.

Câu trên, tác giả có thể là so sánh giữa Thực với Tài!

Sửa bởi NgoaLong: 23/01/2014 - 08:13


Thanked by 3 Members:

#3 hieuthuyloi

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1766 Bài viết:
  • 5312 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 10:32

Đọc sách của Thiệu Vĩ Hoa và Trần Viên cũng có thấy nói kiểu đó. Như là Thân vượng, nhưng cuối cùng vẫn coi là Nhược. Tức là khi xét riêng Thân thì nó rất vượng đó, nhưng khi xét tổng thể trong Bát Tự thì nó lại trở thành thành Nhược. Đại khái vậy.

Câu này chuẩn không cần chỉnh, thực tế nhóm này có vô số, vượng mà lại nhược, nhược mà vượng. ngày trước tôi có nói bên nhân trắc học rồi, vulong bảo tôi mới là học trò lớp 3 thôi.

10 cái máy phát điện công suất lớn mà có 1 tỷ khối nước thì thiếu !

ngược lại 1 máy phát điện công suất nhỏ mà 50 triệu khối nước là dư

*** Khi xét vượng hay nhược phải kèm theo chi vận mà xét, tách vận thì không có nghĩa.

Sửa bởi hieuthuyloi: 23/01/2014 - 10:33


Thanked by 1 Member:

#4 journey

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 5 Bài viết:
  • 2 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 10:32

nr. 1: thí dụ Hoàng đô đốc trong chương "thực thần thủ vận", không phải "luận hành vận" nói chung. Có nghĩa là tập trung vào Thực thần cách mà luận.

nr. 2: luận theo cách cục không đơn giản như cách luận theo vượng/nhược mà chỉ xét "nhược thì dùng ấn, tỉ", "vượng thì dùng thực, tài, quan" (tùy theo trạng thái cụ thể của tứ trụ)

nr. 3: thí dụ Hoàng đô đốc đầy đủ phải có cả câu phía trên thí dụ: "Kim Thủy dụng Quan và Mộc Hỏa dụng Ấn đều là điều hậu, nhưng mà không giống nhau. Kim Thủy không thể không gặp Quan, mà Mộc Hỏa không thể không có Ấn, nếu thân cường thì cũng được quý."

Có nghĩa là mệnh Hoàng Đô Đốc là Thực thần cách, Tài nhiều, nhật chủ có Lộc ở Dần, nhưng lại thiếu Ấn, nên ban đầu là luận Giáp vượng nhờ có 2 Dần, nhưng kết cục là nhược vì không có Ấn trong trạng thái thực tế là Thực nhiều Tài nhiều, tháng sinh là hỏa lệnh, mộc quá vượng thì càng khô héo, nên phải nhờ hành vận Thủy Mộc mà trung hòa.

Đoạn đầy đủ về thí dụ này nguyên văn Hán Việt như sau:

"Kim thủy dụng quan dữ mộc hỏa dụng ấn, đồng vi điều hậu, nhiên hữu bất đồng giả. Kim thủy phi kiến quan bất khả, nhi mộc hỏa vô ấn, nhược thân cường diệc khả tựu quý. Như bản thiên hoàng đô đốc tạo: Kỷ mùi kỷ tị giáp dần bính dần. Giáp mộc tọa dần, thì hựu phùng dần, nhật nguyên thậm vượng, vượng nhi tiết tú, diệc khả dụng dã, duy hỏa đa tắc mộc hữu tự phần chi hoạn. Thử tạo diệu tại thực khinh tài trọng, hỏa tiết kỳ khí, duy cứu hiềm thiên yếu, quý đa tựu vũ. Hành vận nhưng nghi ấn kiếp chi địa, ất sửu, giáp tí, quý hợi, nhâm tuất tam thập ngũ niên, tối vi mỹ lợi, tuy mệnh tạo bản giai, diệc vận trợ chi dã."

#5 journey

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 5 Bài viết:
  • 2 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 11:57

nr. 4 : chính thực ra câu "được 3 can không bằng 1 chi lộc nhận" không rõ ràng, 3 can là 3 can gì? 1 chi lộc nhận là vừa lộc vừa nhận?

Trong Tử Bình Chân Thuyên viết là "đắc tam bỉ kiên ,bất như đắc nhất trường sanh lộc nhận ,như giáp phùng hợi tí dần mão chi loại", nghĩa là có 3 Tỉ Kiên không bằng có được 1 chi tọa Trường Sinh, Lộc (Lâm Quan) hoặc Nhận (Đế Vượng); Giáp tọa trường sinh tại Hợi, tọa lâm quan tại Dần, tọa đế vượng tại Mão, còn lại tọa mộc dục tại Tí là vì Quí thủy trong Tí là chính ấn sinh cho Giáp (tuy vậy, mộc dục không bằng ts, lq và đv).

Đoạn trên nói rõ hơn trong chương "Thập can đắc thời bất vượng" (10 thiên can được thời lệnh mà không vượng).

Sửa bởi journey: 23/01/2014 - 12:01


#6 GumBall

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 619 Bài viết:
  • 1038 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 12:29

Đầu tiên cần xem cơ sở của pp xét mệnh theo vượng suy của nhật chủ là gì, giới hạn của pp là gì, thì mới bàn được. Chứ cắm đầu hùng hục vào áp thì hết thuốc.

#7 maianha

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 226 Bài viết:
  • 284 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 13:12

Bác Mao giải thích rõ hơn nữa được không? Cám ơn.

#8 ThucThan

    Bát quái viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 957 Bài viết:
  • 1855 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 16:09


Lấy ls cách cục đặc biệt ra luận vượng suy, tính điểm vượng, điểm suy...

Luận kiểu này...tẩu...tẩu..tẩu...vi thượng sách...hự...hự...hự...




Thanked by 1 Member:

#9 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 19:11

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NgoaLong, on 23/01/2014 - 07:58, said:

NL nghĩ thế này:

Đoạn trên có lẽ là từ sách được dịch lại, vì vậy mà cũng có thể là dịch không chuẩn theo ý của tác giả. Với lại, đôi khi "văn bất tận ý", vì viết có giới hạn nên không thể trình bày cặn kẽ từng lời, từng bước được. Thành ra, người đọc không nên quá cố chấp vào câu chữ và không nên quá tin tưởng/lệ thuộc vào đó để rồi dẫn đến sai lầm, mà thay vào đó vừa đọc vừa tra ngẫm.

Đọc thoáng qua đoạn trên và liếc qua Bát Tự thì theo NL hiểu cái ý đại khái là: Giáp có Dần, tức là có gốc sâu (không chỉ 1, mà có đến 2 Dần luôn) thì mạnh và vững chắc, rất vượng (đó là nói riêng về Thân- tức Giáp Mộc, khi đó chỉ mới xét đến Mộc thôi chứ chưa xét đến các hành khác). Rồi xét thêm nữa sẽ là .... nhưng đồng thời trong Trụ 2 hành Hỏa và Thổ cũng nhiều và mạnh nữa (Hỏa đương lệnh, còn Thổ thì nhiều và lại có gốc và được sinh). Thành thử tuy Mộc khá mạnh, nhưng phải tiết khí và bị Tài (Thổ) khắc nên suy ra tuy Thân vượng/mạnh nhưng vẫn cần phù trợ (nói cách khác là tuy vượng nhưng vẫn coi như là Nhược).

Đọc sách của Thiệu Vĩ Hoa và Trần Viên cũng có thấy nói kiểu đó. Như là Thân vượng, nhưng cuối cùng vẫn coi là Nhược. Tức là khi xét riêng Thân thì nó rất vượng đó, nhưng khi xét tổng thể trong Bát Tự thì nó lại trở thành thành Nhược. Đại khái vậy.

Đoạn này NL hiểu khác. Theo NL thì tác giả so sánh Thực với "yếu tố" khác, chứ không phải chỉ đơn độc 1 mình nó. Ở đây Thực đúng là khá có lực, nhưng nếu so với Tài thì Tài mạnh hơn Thực. Bởi Tài có Kỷ Kỷ và có gốc trong Mùi, lại còn được Thực sinh cho.

Câu trên, tác giả có thể là so sánh giữa Thực với Tài!


Theo tôi thì câu: “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“ quá đủ để cho chúng ta hiểu ý của tác giả muốn nói là Thân quá vượng mà đã quá vượng mà được tiết tú vẫn có thể lấy làm dụng thần thì chỉ có là Ngoại Cách mà thôi. Vậy thì ở đây nó thuộc Ngoại Cách nào?

1 - Nếu là cách Mộc độc vượng thì Mộc phải nắm lệnh và Mộc phải là hành thống trị trong Tứ trụ chứ, đằng này Mộc không nắm lệnh và chỉ ngang ngửa với Tài. Vậy thì làm sao có thể thành cách Mộc độc vượng được.

2 - Nếu là cách Tòng Nhi (tức Tòng Thực Thương) thì hành vận Kiêu Ấn Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất phải xấu chứ đằng này cả 4 vận đều đẹp. Vậy thì Tòng Nhi cái kiểu gì vậy?

3 - Nếu cho là Tòng Tài thì lại càng sai.

Do vậy nếu hiểu ý của tác giả là Ngoại Cách thì rõ ràng là sai.

Còn nếu hiểu câu trên là ý tác giả muốn nói Thân Mộc quá vượng tức so với Mộc hay so với Quan Sát (Kim) nhưng lại thành nhược nếu so với Thực Thương hay Tài chẳng hạn thì tác giả không thể viết “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“. Bởi vì đã quá vượng mà được tiết tú lại lấy làm dụng thần thì ai ai cũng hiểu là Thân Mộc cần phải được xì hơi thì mới đẹp, tức là Thân phải vượng so với các hành khác (trừ Kiêu Ấn) thì mới đúng như vậy.

Nếu chỉ xét 2 hành là Hỏa và Thổ thì Hỏa không những nắm lệnh còn được Mộc sinh lại không bị khắc trong khi Thổ cho dù hơn Hỏa 1 can Kỷ nhưng lại không nắm lệnh mà còn bị Mộc khắc - Giáp khắc Kỷ trụ tháng và 2 Dần khắc xa Kỷ và Mùi ở trụ năm. Vậy thì làm sao Thổ có thể mạnh hơn Hỏa được. Tác giả không thể xác định được chính xác thế lực của 2 hành Hỏa và Thổ bởi vì tác giả đã không sử dụng tính khắc của Ngũ Hành mà tôi đã phải ví nó như là "Hố Tử Thần trong Tử Bình" là vậy.

Sửa bởi VULONG777: 23/01/2014 - 19:15


#10 maianha

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 226 Bài viết:
  • 284 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 21:04

Bát tự này luận cách cục đơn giản biết bao nhiêu, đem vượng suy vào cân đo nặng nhẹ chi thêm rối.

Sửa bởi maianha: 23/01/2014 - 21:05


Thanked by 1 Member:

#11 GumBall

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 619 Bài viết:
  • 1038 thanks

Gửi vào 23/01/2014 - 21:16

Thực Thần sinh Tài hả maianha ?

#12 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 24/01/2014 - 01:32

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

maianha, on 23/01/2014 - 21:04, said:

Bát tự này luận cách cục đơn giản biết bao nhiêu, đem vượng suy vào cân đo nặng nhẹ chi thêm rối.

Nếu đúng như vậy thì xin mời mainha cứ ra tay dùng cách cục để luận xem sao, tôi sẽ làm chân phản biện.

#13 maianha

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 226 Bài viết:
  • 284 thanks

Gửi vào 24/01/2014 - 04:31

Kỉ mùi kỉ tị giáp dần bính dần
Trước hết xin nhắc lại chọn dụng thần cách cục từ nguyệt lệnh không liên quan gì đến cân bằng vượng suy. Cân bằng vượng suy chỉ dùng để định cách cục cao thấp.
Thực Tài tương sinh cách cục thanh thuần đẹp cả đôi đường . Chương 37, luận Thực thần (TBCTBC,Từ Nhạc Ngô bình chú) nguyên văn (Thẩm Hiếu Chiêm):" ...Thân cường ,Thực vượng và thấu Tài là cách đại quí." Vận thủy mộc hữu tình vừa nâng cấp thân cường vừa đều hậu, thật xứng với tên gọi Hoàng Đô Đốc. Bát tự này đúng cho trường hợp bác Diennien viết (bên HKLS) "Cách cục không bị phá, vượng suy cân bằng thì là lá số thượng cách".
mai an ha.

Sửa bởi maianha: 24/01/2014 - 04:36


Thanked by 2 Members:

#14 NgoaLong

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1746 Bài viết:
  • 4752 thanks

Gửi vào 24/01/2014 - 07:37

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 23/01/2014 - 19:11, said:

Theo tôi thì câu: “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“ quá đủ để cho chúng ta hiểu ý của tác giả muốn nói là Thân quá vượng mà đã quá vượng mà được tiết tú vẫn có thể lấy làm dụng thần thì chỉ có là Ngoại Cách mà thôi. Vậy thì ở đây nó thuộc Ngoại Cách nào?

- Vượng mà tiết tú, mà bị Thực Thương xì hơi (quá mạnh) thì (có thể) trở thành suy yếu.

Trích: "Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần, Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy, duy chỉ có Hỏa nhiều thì gặp tai họa bị cháy thiêu. Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ thiên lệch, quý nhiều liền muốn nối gót, hành vận vẫn cần đất của Ấn Kiếp. Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp, tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy“.


- Trong đoạn trên tác giả còn nói "Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ thiên lệch .... ". Nặng với Nhẹ ở đây có thể nói tới "ít" và "nhiều". Thực Thương mà nhiều quá, lại vượng nữa thì nó xì hơi Thân quá mức. Khi có Tài, Tài xì hơi Thực làm yếu nó thì đỡ xì hơi Thân (tuy Tài là phe địch, cũng làm suy yếu Thân, nhưng Thân mạnh thì có thể khắc chế Tài, tốt hơn là Thân bị xì hơi quá mức trở thành suy nhược thì vô lực). Nếu giả như trong Trụ không có Dần trợ thì lá số không còn đẹp nữa. Lúc đó Thân quá nhược, Thực/Thương Tài vượng vậy thì không còn là cái lá số của "Hoàng Đô Đốc" nữa.

Tiếp đến là vì 2 Hành Hỏa và Thổ khá mạnh, nếu mạnh quá thì Trụ trở thành thiên lệch thì không hay. Và cũng may mắn là hành Vận đi qua phù trợ cho Thân.

Với lại, Giáp mà sinh tháng Tỵ thì Hỏa viêm Thổ táo, cần điều hậu.

Nhìn vào tổ hợp Bát Tự trên thì thấy quá ngon và hữu lực rồi. Mệnh tốt cũng cần gặp Vận tốt để phát. Đoạn trên cũng có nói "tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy".

Trích dẫn

1 - Nếu là cách Mộc độc vượng thì Mộc phải nắm lệnh và Mộc phải là hành thống trị trong Tứ trụ chứ, đằng này Mộc không nắm lệnh và chỉ ngang ngửa với Tài. Vậy thì làm sao có thể thành cách Mộc độc vượng được.

2 - Nếu là cách Tòng Nhi (tức Tòng Thực Thương) thì hành vận Kiêu Ấn Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất phải xấu chứ đằng này cả 4 vận đều đẹp. Vậy thì Tòng Nhi cái kiểu gì vậy?

3 - Nếu cho là Tòng Tài thì lại càng sai.

Trụ này không thể tòng được, Giáp có 2 Chi Dần thì tòng thể nào cho được. Càng không thể Mộc độc vượng được.

Trích dẫn

Do vậy nếu hiểu ý của tác giả là Ngoại Cách thì rõ ràng là sai.

Bác VuLong cho là vậy thôi. Chứ NL thấy tác giả không cho Trụ trên là ngoại cách.

Trích dẫn

Còn nếu hiểu câu trên là ý tác giả muốn nói Thân Mộc quá vượng tức so với Mộc hay so với Quan Sát (Kim) nhưng lại thành nhược nếu so với Thực Thương hay Tài chẳng hạn thì tác giả không thể viết “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“. Bởi vì đã quá vượng mà được tiết tú lại lấy làm dụng thần thì ai ai cũng hiểu là Thân Mộc cần phải được xì hơi thì mới đẹp, tức là Thân phải vượng so với các hành khác (trừ Kiêu Ấn) thì mới đúng như vậy.

Đã có nói qua ở trên!

Trích dẫn

Nếu chỉ xét 2 hành là Hỏa và Thổ thì Hỏa không những nắm lệnh còn được Mộc sinh lại không bị khắc trong khi Thổ cho dù hơn Hỏa 1 can Kỷ nhưng lại không nắm lệnh mà còn bị Mộc khắc - Giáp khắc Kỷ trụ tháng và 2 Dần khắc xa Kỷ và Mùi ở trụ năm. Vậy thì làm sao Thổ có thể mạnh hơn Hỏa được. Tác giả không thể xác định được chính xác thế lực của 2 hành Hỏa và Thổ bởi vì tác giả đã không sử dụng tính khắc của Ngũ Hành mà tôi đã phải ví nó như là "Hố Tử Thần trong Tử Bình" là vậy.

Hỏa tuy Vượng và được Mộc sinh, nhưng Thổ Tướng và nhiều hơn, đồng thời lại được Hỏa sinh cho.

Hơn nữa, còn có quy tắc là "tham hợp tham sinh quên khắc". Giáp mộc không những không khắc Kỷ thổ mà còn hợp Kỷ hóa Thổ là đằng khác. Cũng như Nhâm thủy không khắc Đinh hỏa, mà Nhâm hợp Đinh hóa Mộc, Bính hỏa không khắc Tân kim mà còn hợp hóa Thủy, v.v... .

Sửa bởi NgoaLong: 24/01/2014 - 07:52


Thanked by 1 Member:

#15 GumBall

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 619 Bài viết:
  • 1038 thanks

Gửi vào 24/01/2014 - 07:45

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

maianha, on 24/01/2014 - 04:31, said:

Kỉ mùi kỉ tị giáp dần bính dần
Trước hết xin nhắc lại chọn dụng thần cách cục từ nguyệt lệnh không liên quan gì đến cân bằng vượng suy. Cân bằng vượng suy chỉ dùng để định cách cục cao thấp.
Thực Tài tương sinh cách cục thanh thuần đẹp cả đôi đường . Chương 37, luận Thực thần (TBCTBC,Từ Nhạc Ngô bình chú) nguyên văn (Thẩm Hiếu Chiêm):" ...Thân cường ,Thực vượng và thấu Tài là cách đại quí." Vận thủy mộc hữu tình vừa nâng cấp thân cường vừa đều hậu, thật xứng với tên gọi Hoàng Đô Đốc. Bát tự này đúng cho trường hợp bác Diennien viết (bên HKLS) "Cách cục không bị phá, vượng suy cân bằng thì là lá số thượng cách".
mai an ha.

Thực Thần sinh Tài, nhưng trụ có 2 tài.
Thực Thần sinh Tài, nhưng là ngọn sinh gốc.
Thực Thần sinh Tài, nhưng là sinh từ xa.

Phải chăng 3 yếu tố này làm giảm độ số cách cục.

Thực Thần, Tài, Thân đều có gốc và đắc vượng, phải chăng là yếu tố làm bền vững cách cục.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |