Jump to content

Advertisements




“3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ đúng hay sai?


84 replies to this topic

#31 NgoaLong

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1746 Bài viết:
  • 4752 thanks

Gửi vào 26/01/2014 - 06:57

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 25/01/2014 - 14:14, said:

Xin hỏi bác VULONG tứ trụ này Thân vượng hay nhược?
Càn tạo, Mậu tuất/kỉ mùi/Bính tí/canh dần.

Thương Thực nhiều và mạnh như vậy thì không nên áp chế lại nó. Mộc dù có lực cũng sợ là không chống lại nổi, ở đây Mộc suy nhược thì càng không nên chống trực diện. Dụng áp chế không được thì lùi lại xì hơi nó. Lấy Canh (Tài) xì hơi Thực Thương có lẽ tốt hơn.

Hoặc nói Dụng Ấn (Mộc) sinh Thân để làm cho Thân mạnh hơn, nhưng Dụng Thần không đắc lực cũng không hay lắm. Mộc ở trong Mùi thì yếu quá, còn Giáp tàng trong Dần vừa không có lực, vừa bị Canh khắc.

Còn Hỏa thì trợ Thân được bao nhiêu thì chưa biết, nhưng Hỏa lại có thể đi sinh cho Thổ thì cũng không lợi ích gì. Còn Thủy thì không có ích gì.

Chỉ còn lại Kim thôi. Canh cũng đắc lực!


*** Theo bảng "Dụng Thần Dự Bị" trong sách ông TVH, Bính sinh tháng 6 (Mùi) thì chọn Nhâm, Canh.

Nhâm thì không có lợi gì cho Trụ này rồi. Còn lại Canh.

Sửa bởi NgoaLong: 26/01/2014 - 07:20


#32 GumBall

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 619 Bài viết:
  • 1038 thanks

Gửi vào 26/01/2014 - 10:54

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NgoaLong, on 26/01/2014 - 06:57, said:

Thương Thực nhiều và mạnh như vậy thì không nên áp chế lại nó. Mộc dù có lực cũng sợ là không chống lại nổi, ở đây Mộc suy nhược thì càng không nên chống trực diện. Dụng áp chế không được thì lùi lại xì hơi nó. Lấy Canh (Tài) xì hơi Thực Thương có lẽ tốt hơn.

Đây chính là sự loạn xạ của cách xem nhật chủ vượng suy. Tôn chỉ thì nói rằng cần lấy sự vượng suy của nhật chủ làm nòng cốt. Đến khi xét, thấy Thực Thương mạnh quá thì không dám khắc Thực Thương lại quay ra xì hơi Thực Thương, vậy đâu còn là xét nhật chủ vượng suy làm nòng cốt mà thành phương pháp cách cục rồi.

Còn nếu theo phép nhật chủ vượng suy là nòng cốt, thì Thực Thương vượng phải bổ thân hoặc dùng ấn vừa bổ thân vừa phá Thực Thương. Cho dù xì hơi Thực Thương thì cũng là điều kiện thứ yếu sau khi bổ thân.

Hơn nữa, phương pháp nhật chủ vượng suy hoàn toàn phá sản với các "ngoại cách". Đã gọi là phương pháp nhất quán thì làm gì còn ngoại cách. Còn ngoại cách nằm ngoài pp thì pp đó còn khiếm khuyết, vậy thôi.

#33 Khokhao

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 69 Bài viết:
  • 33 thanks

Gửi vào 26/01/2014 - 11:12

Hôm nay gặp dc bác VULONG trong phần tử bình này thấy bác phân tích Nhật can nhược hay vượng có vẻ là rất tâm đắc. Thấy dc bác cũng rất tâm đắc về hướng đi tìm thân nhược hay vượng, vấn đề này cũng làm tôi rất ngu ngơ. Nếu có duyên bác xem dùm coi dùm tứ trụ này là thân nhược hay cường, theo bác có thể dụng thần dc ko? Thanks
Năm - Tháng - Ngày - Giờ

Mậu Thìn - Bính Thìn - Giáp Thìn - Đinh Mảo

#34 Hjmama

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 117 Bài viết:
  • 72 thanks

Gửi vào 26/01/2014 - 11:18

@vulong : Ở trang kimtubinh.net đã dịch đầy đủ 48 chương, tựa là Tử Bình Chân Thuyên bình chú, Bác vào đó tha hồ copy. Tôi dự tính trao đổi với Bác chủ đề trên, nhưng thôi chờ Bác nghiên cứu đầy đủ các chương xong tôi sẽ trao đổi sau.
@NgoaLong :

Trích dẫn



Mậu tuất ki mui binh ti canh dan
Hành vận: Canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý / ất sửu

Bính hỏa sanh tháng 6, lửa còn chút sáng, giờ gặp Dần mộc, Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược. Nguyệt lệnh Kỷ thổ Thương quan thấu ra, bát tự liên tiếp 4 thổ, tiết khí thái quá, lấy tài tiết thương làm dụng, cũng là để ức chế cái mạnh thái quá. Là trụ của Lý Quân ở Hợp Phì.
Đây là vd do Từ Nhạc Ngô đưa ra và tự luận (không phải của tác giả TBCT),lấy ra từ chương 8 Luận dụng thần ở trang web KTB . Tôi cũng đồng tình với NL lấy Tài tiết Thương làm dụng như ý Từ Đại ca, duy chỉ có VULONG là dụng Ấn.
Điều tôi muốn nói ở đây nếu là luận theo cách cục thì: nguyệt thấu Thương quan phối Tài , "nhật nguyên tưởng nhược mà không nhược" nên có thể thành cách Thương quan sinh Tài.

Sửa bởi Hjmama: 26/01/2014 - 11:32


Thanked by 1 Member:

#35 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 26/01/2014 - 19:14

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 26/01/2014 - 11:18, said:

@vulong : Ở trang kimtubinh.net đã dịch đầy đủ 48 chương, tựa là Tử Bình Chân Thuyên bình chú, Bác vào đó tha hồ copy. Tôi dự tính trao đổi với Bác chủ đề trên, nhưng thôi chờ Bác nghiên cứu đầy đủ các chương xong tôi sẽ trao đổi sau.
@NgoaLong :

Đây là vd do Từ Nhạc Ngô đưa ra và tự luận (không phải của tác giả TBCT),lấy ra từ chương 8 Luận dụng thần ở trang web KTB . Tôi cũng đồng tình với NL lấy Tài tiết Thương làm dụng như ý Từ Đại ca, duy chỉ có VULONG là dụng Ấn.
Điều tôi muốn nói ở đây nếu là luận theo cách cục thì: nguyệt thấu Thương quan phối Tài , "nhật nguyên tưởng nhược mà không nhược" nên có thể thành cách Thương quan sinh Tài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 26/01/2014 - 11:18, said:

@vulong : Ở trang kimtubinh.net đã dịch đầy đủ 48 chương, tựa là Tử Bình Chân Thuyên bình chú, Bác vào đó tha hồ copy. Tôi dự tính trao đổi với Bác chủ đề trên, nhưng thôi chờ Bác nghiên cứu đầy đủ các chương xong tôi sẽ trao đổi sau.
@NgoaLong :

Đây là vd do Từ Nhạc Ngô đưa ra và tự luận (không phải của tác giả TBCT),lấy ra từ chương 8 Luận dụng thần ở trang web KTB . Tôi cũng đồng tình với NL lấy Tài tiết Thương làm dụng như ý Từ Đại ca, duy chỉ có VULONG là dụng Ấn.
Điều tôi muốn nói ở đây nếu là luận theo cách cục thì: nguyệt thấu Thương quan phối Tài , "nhật nguyên tưởng nhược mà không nhược" nên có thể thành cách Thương quan sinh Tài.
............................
Đây là vd do Từ Nhạc Ngô đưa ra và tự luận (không phải của tác giả TBCT),lấy ra từ chương 8 Luận dụng thần ở trang web KTB . Tôi cũng đồng tình với NL lấy Tài tiết Thương làm dụng như ý Từ Đại ca, duy chỉ có VULONG là dụng Ấn.
Điều tôi muốn nói ở đây nếu là luận theo cách cục thì: nguyệt thấu Thương quan phối Tài , "nhật nguyên tưởng nhược mà không nhược" nên có thể thành cách Thương quan sinh Tài.
Sửa bởi Hjmama: Hôm nay, 05:32

Cám ơn Hjmama, tôi đã coppy được các chương đó rồi duy chương 37 thì không biết làm sao máy báo không tìm thấy, đành phải chờ vậy (tôi không ngờ nó lại ở chủ đề: “Mục lục Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“).

Còn ví dụ của Hjmama đưa ra là của ông Từ Nhạc Ngô thì dĩ nhiên với 1 Fan cuồng tín như ông ta thì Nhật can Giáp có chi Dần thì ông ta kết luận luôn là Thân cường (tức vượng) rồi, vì ông ta cần gì để ý đến hành nào nắm lệnh cho mệt óc. Cho nên ông ta lấy Thực Thương, Tài hay Quan Sát là hỷ dụng thần thì có gì là ngạc nhiên. Trong khi ví dụ mà tôi đưa ra ở chủ đề này thì Giáp có đến 2 chi Dần xuất hiện nên ông ta kết luận luôn là Thân quá cường vượng thì tại sao ông ta không lấy Thực Thương, Tài hay Quan sát làm dụng thần mà lại lấy Kiêu Ấn, Tỷ Kiếp làm dụng thần (mặc dù không phải ngoại cách).

Vậy thì qua 2 ví dụ này có thể khẳng định ông Từ Nhạc Ngô đã ngụy tạo một cách Trắng Trợn hay không?

Tiện thể tôi xin hỏi Hjmama : Ai là người đầu tiên đưa ra ý tưởng (hay khái niệm) "Dụng thần là Cách cục" (tức Dụng thần ở tại Nguệt lệnh")?

Sửa bởi VULONG777: 26/01/2014 - 19:24


#36 Hjmama

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 117 Bài viết:
  • 72 thanks

Gửi vào 27/01/2014 - 05:44

@VULONG:
Muốn đọc chương 37 bạn vào trang 2.
-Ai là người đầu tiên đưa ra khái niệm "dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh"?- Theo Hoàng Đại Lục: các sách mệnh lý cổ điển như Uyên Hải Tử Bình,Tam Mệnh Thông Hội,Thần Phong Thông Khảo...tất cả đều cho rằng "Dụng thần là khái niệm quan trọng hàng đầu của mệnh lý học,là yếu tố cần thiết để đoán mệnh", thế nhưng những sách này đều không có một chương riêng biệt nào để bàn về dụng thần mà hầu hết đều tập trung phần lớn các chương để luận cách cục.(Có phải vì sự kiện này mà HĐL nghi ngờ Dụng thần cũng chính là cách cục chăng?). Cho đến khi nghiên cứu cuốn Tử Bình Chân Thuyên của Thẩm Hiếu Chiêm ông mới xác quyết chính là "Dụng thần cách cục" và từ đó ông viết sách xiển dương rất mạnh mẽ.
Ý tôi (Hj) là như thế nếu có gì không đúng mong Bác Tân và các anh em khác chỉnh sửa,xin cám ơn.

Thanked by 1 Member:

#37 Khokhao

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 69 Bài viết:
  • 33 thanks

Gửi vào 27/01/2014 - 06:21

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 27/01/2014 - 05:44, said:

@VULONG:
Muốn đọc chương 37 bạn vào trang 2.
-Ai là người đầu tiên đưa ra khái niệm "dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh"?- Theo Hoàng Đại Lục: các sách mệnh lý cổ điển như Uyên Hải Tử Bình,Tam Mệnh Thông Hội,Thần Phong Thông Khảo...tất cả đều cho rằng "Dụng thần là khái niệm quan trọng hàng đầu của mệnh lý học,là yếu tố cần thiết để đoán mệnh", thế nhưng những sách này đều không có một chương riêng biệt nào để bàn về dụng thần mà hầu hết đều tập trung phần lớn các chương để luận cách cục.(Có phải vì sự kiện này mà HĐL nghi ngờ Dụng thần cũng chính là cách cục chăng?). Cho đến khi nghiên cứu cuốn Tử Bình Chân Thuyên của Thẩm Hiếu Chiêm ông mới xác quyết chính là "Dụng thần cách cục" và từ đó ông viết sách xiển dương rất mạnh mẽ.
Ý tôi (Hj) là như thế nếu có gì không đúng mong Bác Tân và các anh em khác chỉnh sửa,xin cám ơn.
Mình thấy Hj nói hợp lý theo mình nghĩ "Dụng thần cũng chính là cách cục" bởi vì có câu nói "nhật nguyên tưởng nhược mà không nhược"

#38 Hjmama

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 117 Bài viết:
  • 72 thanks

Gửi vào 27/01/2014 - 09:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 27/01/2014 - 05:44, said:

@VULONG:
Muốn đọc chương 37 bạn vào trang 2.
-Ai là người đầu tiên đưa ra khái niệm "dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh"?- Theo Hoàng Đại Lục: các sách mệnh lý cổ điển như Uyên Hải Tử Bình,Tam Mệnh Thông Hội,Thần Phong Thông Khảo...tất cả đều cho rằng "Dụng thần là khái niệm quan trọng hàng đầu của mệnh lý học,là yếu tố cần thiết để đoán mệnh", thế nhưng những sách này đều không có một chương riêng biệt nào để bàn về dụng thần mà hầu hết đều tập trung phần lớn các chương để luận cách cục.(Có phải vì sự kiện này mà HĐL nghi ngờ Dụng thần cũng chính là cách cục chăng?). Cho đến khi nghiên cứu cuốn Tử Bình Chân Thuyên của Thẩm Hiếu Chiêm ông mới xác quyết chính là "Dụng thần cách cục" và từ đó ông viết sách xiển dương rất mạnh mẽ.
Ý tôi (Hj) là như thế nếu có gì không đúng mong Bác Tân và các anh em khác chỉnh sửa,xin cám ơn.
Tôi viết kiểu này dễ khiến mọi người hiểu rằng Hoàng Đại Lục là nhân vật chính trong câu hỏi của VL. Đúng ra người đưa khái niệm cách cục ban đầu chính là các tác giả các sách mệnh lý cổ điển kể trên, sau đó đến Thẩm Hiếu Chiêm với Tử Bình Chân Thuyên mới hoàn chỉnh hệ thống lý luận "Dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh" rất đặc sắc như ta biết. HĐL là người có công xiển dương nó theo bản nghĩa.

Thanked by 1 Member:

#39 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 27/01/2014 - 21:23

Trích dẫn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

[/url]

Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Thân Mộc lớn hơn Hỏa trên 1 điểm vượng). Nếu điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa chỉ cần tăng thêm 0,09 đv thì Tứ Trụ này sẽ trở thành Thân Nhược, vì lúc đó Mộc có 19,04 đv không lớn hơn Hỏa 1 đv (Hỏa có 17,96 + 0,09 = 18,05 đv).

Từ trước tới nay tôi mới tìm thấy các ví dụ chứng minh được can chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh được cho nhau cũng như điểm vượng của Kiêu Ấn trong vùng tâm có thể sinh được ½ đv của nó cho Thân chứ chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh được Chi sinh được cho Chi cũng như Can có thể sinh được cho Can.



Tứ Trụ này không thể thuộc ngoại cách vì:

1 - Nếu là cách Mộc độc vượng thì Mộc phải nắm lệnhMộc phải là hành thống trị trong Tứ trụ, đằng này Mộc không nắm lệnh và chỉ ngang ngửa với Tài. Vậy thì làm sao có thể thành cách Mộc độc vượng được.

2 - Nếu là cách Tòng Nhi (tức Tòng Thực Thương) thì hành vận Kiêu ẤnẤt Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất phải xấu, đằng này cả 4 vận đều đẹp.

3 - Nếu cho là Tòng Tài thì lại càng sai vì Thân và Tài ngang ngửa với nhau (mỗi bên đều có 3 can chi và cùng không nắm lệnh, Thổ có ưu thế hơn Mộc do được lệnh nhưng lại bị khắc bởi Mộc nên thành hòa).

Kết hợp với tác giả đã cho biết tất cả 4 vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi và Nhâm Tuất) đều rất đẹp đã khẳng định Thân của Tứ Trụ này phải nhược. Bởi vì Thân nhược thì mới cần đến sự sinh trợ của Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (khi nó không phải là ngoại cách).

Hoàn toàn tương tự như lý thuyết của tôi đã tìm ra là Can Chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh cho nhau được. Cụ thể như ví dụ này thì Dần trụ giờ có Dần bên cạnh là trụ ngày cùng hành nên Dần trụ giờ có thể sinh được cho Bính cùng trụ 1/3 đv của nó (còn nếu chi bên cạnh mà mang hành sinh cho nó thì nó có thể sinh được cho Bính cùng trụ ½ đv của nó) chỉ khi Dần và Bính trụ giờ không bị khắc gần hay cùng bị hợp. Do vậy chúng ta không có lý do gì mà không thể ứng dụng lý thuyết này cho Chi sinh cho Chi.

Nếu ứng dụng giả thiết này cho Chi thì ta thấy Dần trụ ngày có Dần trụ giờ cùng hành ở bên cạnh nên nó có thể sinh được 1/3 đv của nó cho Tị trụ tháng cũng ở bên cạnh nó vì Dần trụ ngày và Tị trụ tháng không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

Nếu như vậy thì Dần trụ ngày sinh được cho Tị trụ tháng (4,05 + 4,83).1/3 đv = 2,96 đv. Do vậy Tị có 10 đv được nhận thêm 2,96 đv thành 12,96 đv. Tị không bị can chi nào khắc nên khi đi vào vùng tâm chỉ bị giảm 2/5 đv còn 12,96.3/5 đv = 7,78 đv. Như vậy hành Hỏa trong vùng tâm có tới (11,96 + 7,78) đv = 19,74 đv.

Dĩ nhiên Tị trụ tháng có Dần trụ ngày mang hành sinh cho nó thì nó cũng có thể sinh được ½ đv của nó cho Mùi trụ năm vì Tị và Mùi không bị khắc gần, trực tiếp hay ở trong hợp (Mùi chỉ bị khắc xa bởi 2 Dần). Mùi có 10 đv nhận được ½ đv của Tị là (10 + 2,96).1/2 đv = 6,48 đv thành 16,48 đv. Điểm vượng của Mùi bị giảm 1/5 đv do Dần khắc cách 1 ngôi, 1/10 đv do Dần trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm bị giảm thêm ½ đv nữa còn 16,48.4/5 . 9/10 . 1/2 đv = 5,93 đv. Do vậy điểm vượng trong vùng tâm của Thổ là (5,93 + 5,13 +6,67) đv = 17,73 đv.

Thân Mộc có 19,04 đv, Hỏa có 19,74 đv. Thân của Tứ Trụ này là nhược vì nó không lớn Hỏa 1 đv, do vậy nó đã hoàn toàn phù hợp với thực tế của ví dụ này.

Để kiểm tra giả thiết này tôi đã Lọ Mọ tính lại gần 300 ví dụ mẫu trong sách của tôi thì thấy không một ví dụ nào trong các ví dụ này mà Thân hay dụng thần của chúng thay đổi. Do vậy tôi có thể nói rằng đây là ví dụ đầu tiên đã chứng minh được Chi có thể sinh được cho Chi như Can và Chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau.

Còn Can có thể sinh được cho Can hay không thì ta đành phải chờ đợi và hy vọng sẽ lại may mắn tìm được 1 ví dụ tương tự như ví dụ này.

Đừng có ai Ngớ Ngẩn mà tin rằng khi tác giả đã khẳng định “Nhật Nguyên quá cường vượng …cần được tiết tú….“ , lại cho rằng tác giả lấy Kiêu Ấn là Thủy để điều hầu nên 4 vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mới đẹp như vậy. Ở đây Thân quá cường vượng mà Thủy là Kiêu Ấn mà lấy Thủy điều hầu thì không phải ngũ hành sinh hóa hữu tình nữa mà thành ngũ hành sinh hóa Thất Tình (tức càng xấu hơn là không điều hầu). Bởi vì khi đó Tứ Trụ không còn nóng nữa mà mát mẻ nên ngũ hành thoải mái sinh phù và khắc nhau (nếu sinh hóa dẫn đến những điều đẹp thì gọi là Hữu Tình còn sinh hóa dẫn đến những sự xấu thì nói cho là Vô Tình hay Thất Tình). Do vậy nếu Thân nhược thì vô cùng tốt đẹp vì Kêu Ấn (Thủy) áp chế Hỏa để sinh cho Thân, Thân trở nên vượng hơn sẽ thắng được Tài (tức kiếm được tiền, vợ…) rồi Tài nhiều sẽ sinh Quan, tức là đẹp đủ đường trong khi nếu Thân vượng thì hoàn toàn ngược lại. Kiêu Ấn (Thủy) chế ngự Hỏa để sinh Thân, Thân đã vượng không được xì hơi lại còn được sinh nên càng vượng hơn sẽ kiếp Tài, dẫn đến hao tài tốn của, hình khắc vợ con (vì Thân quá cường vượng thì Tỷ Kiếp lúc này không cần phải liên kết với Thân mới thắng được Tài nữa mà mạnh ai người đó tranh đoạt Tài với nhau và với Thân nên cực xấu là như vậy).

Sửa bởi VULONG777: 27/01/2014 - 21:39


Thanked by 3 Members:

#40 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 28/01/2014 - 17:51

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hjmama, on 27/01/2014 - 09:15, said:

Tôi viết kiểu này dễ khiến mọi người hiểu rằng Hoàng Đại Lục là nhân vật chính trong câu hỏi của VL. Đúng ra người đưa khái niệm cách cục ban đầu chính là các tác giả các sách mệnh lý cổ điển kể trên, sau đó đến Thẩm Hiếu Chiêm với Tử Bình Chân Thuyên mới hoàn chỉnh hệ thống lý luận "Dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh" rất đặc sắc như ta biết. HĐL là người có công xiển dương nó theo bản nghĩa.

Cám ơn Hjmama, tôi đã coppy được nốt chương 37 rồi. Không hiểu tại sao mục đó có tới tận 5 trang mà mấy năm nay tôi không nhìn thấy?

Với câu truyền thống và chắc là người dịch không dịch sai : “Dụng thần chuyên cầu ở Nguyệt lệnh“ của các cổ nhân để lại thì theo tôi bất kỳ người nào đọc nó đều hiểu rằng chữ “chuyên cầu“ phải hiểu theo nghĩa “Tìm dụng thần phải cần đến Nguyệt lệnh“ hay “Dụng thần phải truy tìm từ Nguệt lệnh“ chứ không ai lại đi hiểu là “Dụng thần ở tại Nguyệt lệnh“ như vậy cả.

Vì sao có sự hiểu nông cạn theo nghĩa đen như vậy? Bởi vì chính những người này không có khả năng suy luận logic, thường là những người “Học Gạo“ mà theo dân gian là “Học Vẹt“. Dĩ nhiên những người càng “Học Vẹt“ thì càng “Thong Manh“ nhất vì có nói với họ thì khác gì “Vịt Nghe Sấm“.

Tôi đã chứng minh được Tứ Trụ của Hoàng Đại Lục thuộc “Cách Cục Đầu Đất“ ở chủ đề “Giải trừ câu bùa chú “Thân cường mới có thể đảm Tài Quan““ bên trang web “Nhân Trắc Học“. Nếu ai không tin xin mời sang đó đọc và nếu có khả năng hãy phản biện các bài viết của tôi giúp ông ta.

Thân chào

Thanked by 1 Member:

#41 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 30/01/2014 - 21:14

Với ví dụ trên là ví dụ đầu tiên đã khẳng định Chi có thể sinh cho Chi ít nhất (Min) 0,09 đv trong vùng tâm. Sau đó cũng ví dụ này tôi đã thử cho
Chi sinh cho Chi cũng theo tỷ lệ ½ và 1/3 giống như Can Chi cùng trụ sinh cho nhau và thấy tỷ lệ này đã đúng cho một số ví dụ nhưng chưa thể khẳng định là tỷ lệ sinh này có phải là cao nhất (Max) hay không?

Sau đây là ví dụ số 154 trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ “Chương 27 : Luận phân biệt hỷ kị của can và chi“ như sau:

154 – Mậu Ngọ / Ất Mão / Nhâm Tý / Canh Tý
Bính Thìn - Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi - Canh Thân -Tân Dậu -Nhâm Tuất

Sinh năm Thanh - Hàm Phong thứ 8, ngày 6 tháng 2 giờ Tý, là mệnh của Khương Hữu Vi
(1858-1927). Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần. Ngọ vận xung Tý, chỉ nhất xung mà tạo ra lưỡng xung, Hỉ thần xung kị, danh tiếng nổi như cồn. Kỷ Mùi can chi đều thổ, đúng là Kỷ có tác dụng trợ Sát chế Nhận, nhưng Mùi vận hội Mão hóa mộc, hỷ hóa thành kị, Thươngượng. B quan động thành chế Sát. Chính biến Mậu Tuất (1898) **, 41 tuổi nhập ngay Mùi vận, may mắn lưu niên Mậu Tuất cát nên tưởng chết mà lại chạy thoát“.

Vì mục đích là muốn xác định chính xác tỷ lệ sinh của Chi cho Chi nên ở đây ta chỉ cần biết Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược cái nào phù hợp với thực tế đã diễn ra với ví dụ này là đủ.

Ta thấy Thân mang hành Thủy mà vận Mậu Ngọ người này “…danh tiếng nổi như cồn…“ đủ để ta xác định Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Bởi vì can chi Mậu và Ngọ của đại vận mang hành của Tài Quan (tức các hành áp chế Thân) khi tác động tới các can chi trong Tứ Trụ không hề có sự hợp hóa gì cả nên nó vẫn giữ nguyên hành của chúng.

Khi đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng rồi thì bước tiếp theo ta xác định điểm hạn và điểm vượng của các hành trong vùng tâm.

Sau đây là sơ đồ xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm của tôi:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo sơ đồ trên nếu ta lấy tỷ lệ sinh của Chi sinh cho Chi là 1/2 và 1/3 thì ta thấy Thân (Thủy) có 14,28 đv không lớn hơn Thực Thương (Mộc) 1 đv nên Thân là nhược, do vậy nó không phù hợp với thực tế của ví dụ này.
Ta thấy Mộc chỉ cần giảm đi 0,05 đv còn 13,33 đv - 0,05 đv = 13,28 đv thì Thân lớn hơn Mộc đúng 1 đv nên Thân đã trở thành vượng (theo lý thuyết của tôi).

Như vậy thì rõ ràng tỷ lệ sinh 1/2 và 1/3 không đúng, do vậy nó không thể là 1/2 và 1/3 mà còn phải giảm nữa thành 1/3 và 1/5 hay 1/4 và 1/7… chẳng hạn (theo tỷ lệ số sau bằng số trước nhân với 2 rồi trừ đi 1 như: 3 bằng 2.2 -1; 5 bằng 3.2 – 1; 7 bằng 4.2 -1).

Vì tính chất đối xứng trong Vũ Trụ và trong Tử Bình nên ta có thể khẳng định rằng nếu Chi sinh được cho Chi thì Can cũng phải sinh được cho Can.

Do vậy ta thử áp dụng tỷ lệ sinh là 1/3 và 1/5 cho cả can và chi xem sao:

1 - Tý trụ ngày có 7,05 đv sinh được cho Mão trụ tháng 1/5 đv của nó là 7,05.1/5 đv = 1,41 đv. Mão trụ tháng có 9 đv nhận thêm 1,41 đv thành 10,41 đv nhưng số đv này bị giảm 1/9 vì bị Canh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10,41.9/10 .3/5 đv = 5,62 đv.
2 - Nhâm trụ ngày có Canh trụ giờ mang hành sinh cho nó nên nó sinh được cho Ất trụ tháng 1/3 đv của nó là 3.1/3 đv = 1 đv. Do vậy Ất trụ tháng có 9 đv được thêm 1 đv thành 10 đv nhưng bị giảm 1/5 đv do bị Canh trụ giờ khắc cách 1 ngôi còn 10.4/5 đv = 8 đv.
(Chú ý: Chi hay Can chủ sinh và Chi hay Can được sinh ở đây không được bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp).

Vậy thì điểm vượng trong vùng tâm của Mộc là 5,62 đv + 8 đv = 13,62 đv. Ta thấy Thân vẫn nhược nên tỷ lệ sinh này vẫn chưa đúng.

Ta thử tiếp cho tỷ lệ sinh là 1/4 và 1/7 xem sao:

Sau khi tính toán tương tự như trên ta thấy điểm vượng của Mộc trong vùng tâm là 5,4 đv + 7,8 đv = 13,2 đv. Số điểm này đã làm cho Thân trở thành vượng phù hợp với thực tế.

Do vậy với ví dụ này đã chứng minh được khả năng của Chi sinh cho Chi và Can sinh cho Can cao nhất (Max) là 1/4 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/7 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi Can hay Chi sinh và được sinh không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.

Tỷ lệ này theo tôi có thể còn được giảm hơn nữa nếu ta lại tìm thấy một ví dụ nào đó có thể chứng minh được như ví dụ này.

Nhân tiện đây ta thử phân tích xem tác giả luận ví dụ này đúng sai ra sao:

Tác giả viết:
“Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần.“

Rõ ràng ý của tác giả đã khẳng định Mậu (Thổ) là dụng thần nên mới phải luận như vậy để cho Mâu dụng thần không bị thương tổn thì mới có thể đúng cho vận Mậu Ngọ “danh tiếng nổi như cồn“. Nhưng thực chất có đúng như vậy không? Ở đây rõ ràng ta thấy Mậu bị khắc gần bởi Ất nên Mậu làm sao chế được Thủy nữa, với lại Ất Mộc nắm lệnh quá đủ vượng thì làm sao bị trôi dạt do Thủy nhiều mà cần đến Thổ để chế Thủy.

Theo phương pháp của tôi thì ở đây Thực Thương (là nhiều) ngang ngửa với Thân nên Sát không có tác dụng khi làm dụng thần mà dụng thần phải là Tài thì mới chính xác. Do vậy vào vận Mậu Ngọ Hỏa và Thổ đều cường vượng đủ sức áp chế Thân vượng nên mới “danh tiếng nổi như cồn“ như vậy.

Nói chung tất cả các sách cổ và ngay cả hầu hết các cao thủ Tử Bình bây giờ đều mắc sai lầm như tác giả này.

Để chứng minh thêm cho nhận định này ta xét thêm ví dụ số 8 trong “Chương 8 : Luận dụng thần“ trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" mà Hjmama đã đưa ra như sau:

Mậu tuất - Kỷ mùi - Bính tý - Canh dần
Hành vận: Canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý / ất sửu

Bính hỏa sanh tháng 6, lửa còn chút sáng, giờ gặp Dần mộc, Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược. Nguyệt lệnh Kỷ thổ Thương quan thấu ra, bát tự liên tiếp 4 thổ, tiết khí thái quá, lấy tài tiết thương làm dụng, cũng là để ức chế cái mạnh thái quá. Là trụ của Lý Quân ở Hợp Phì“.

Sau đây là sơ đồ xác định thân vượng hay nhược và dụng thần của tôi:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tác giả viết: “Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược“. Ta thấy nếu Tý thủy sinh được cho Ấn là Dần trụ giờ thì Tý không khắc được Bính Nhật can và Canh không khắc được Dần cùng trụ hay sao? Vậy thì Dần làm sao sinh được cho Bính?

Ở đây rõ ràng tác giả dựa vào câu “3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ làm bùa chú cho mình. Do vậy khi thấy Nhật can Bính có chi Dần là kết luận luôn Thân vượng và dĩ nhiên khi đã kết luận như vậy thì tác giả phải “Đẽo, Gọt“ cho nó phải đúng như kết luận của mình mà thôi.

Thực chất của vấn đề là Tý bị Mùi khắc gần nên Tý không thể sinh được cho Dần và Tý cũng không thể khắc được Bính cùng trụ. Do vậy Bính nhật can không bị khắc nên khắc được Canh trụ giờ. Canh trụ giờ bị khắc gần nên nó không thể khắc được Dần cùng trụ. Nhưng mặc dù Bính và Dần không bị thương tổn (đó là điểm cực đẹp của ví dụ này – vì hỷ dụng thần không bị thương tổn) nhưng điểm vượng trong vùng tâm của nó thấp nhiều so với Thổ nên Thân phải là nhược. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Ất tàng trong Mùi trụ tháng (vì Ất vượng hơn Giáp).

(Đừng có nghĩ rằng Sửu là đất ướt nên không chế ngự được Tý thủy bởi vì thực tế đất của các con đê có chứa nước bên trong hay không mà nó vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ?)

Vì tác giả không cho biết tốt xấu của các vận nên đành phải dừng ở đây.
__________________

Sửa bởi VULONG777: 30/01/2014 - 21:43


#42 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 30/01/2014 - 21:54

Câu trên tôi đã viết:
"(Đừng có nghĩ rằng Sửu là đất ướt nên không chế ngự được Tý thủy bởi vì thực tế đất của các con đê có chứa nước bên trong hay không mà nó vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ?)"

Xin sửa lại là:
"(Cho dù Mùi ở đây là Sửu thì cũng đừng có nghĩ rằng Sửu là đất ướt nên không chế ngự được Tý thủy bởi vì thực tế đất của các con đê có chứa nước bên trong hay không mà nó vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ?)"

#43 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 31/01/2014 - 17:06

Trích dẫn

Chính vì tôi vẫn hiểu theo Từ Nhạc Ngô là từ lệnh tháng mới có thể truy tìm được dụng thần (tức dụng thần thăng bằng) chứ không thể hiểu như Hoàng Đại Lục là Dụng thần nằm tại lệnh tháng nên Cách cục chính là dụng thần như vậy.

Do vậy tôi sẵn sàng tranh luận với bất cứ ai và bất cứ lúc nào các bài viết thuộc chủ đề này.

Bác VULONG nghĩ sao khi đọc đoạn văn này trích từ sách của chính sư phụ Thiệu Vĩ Hoa của bác-Dự Đoán Theo Tứ Trụ-.
-PHƯƠNG PHÁP LẤY CÁCH CỤC CAN NGÀY THEO THÁNG SINH-
Trích:...
"Ngày giáp sinh tháng mùi, mùi là mộ kho, là tạp khí. Can lộ ra kỉ thổ là cách chính tài, lộ ra đinh hỏa là cách thương quan. nếu không lộ ra thì tùy đó mà lấy cách. Tháng là vượng địa của tài. Trong tứ trụ nên gặp tài, kỉ thổ lộ ra là tài vượng,kị gặp tỉ kiếp. Trong tứ trụ gặp được thương, đinh hỏa lộ ra càng rõ càng tốt, kị gặp ấn thụ chế ngự làm cho bị thương tổn."

#44 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 01/02/2014 - 03:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

longkiet, on 31/01/2014 - 17:06, said:

Bác VULONG nghĩ sao khi đọc đoạn văn này trích từ sách của chính sư phụ Thiệu Vĩ Hoa của bác-Dự Đoán Theo Tứ Trụ-.
-PHƯƠNG PHÁP LẤY CÁCH CỤC CAN NGÀY THEO THÁNG SINH-
Trích:...
"Ngày giáp sinh tháng mùi, mùi là mộ kho, là tạp khí. Can lộ ra kỉ thổ là cách chính tài, lộ ra đinh hỏa là cách thương quan. nếu không lộ ra thì tùy đó mà lấy cách. Tháng là vượng địa của tài. Trong tứ trụ nên gặp tài, kỉ thổ lộ ra là tài vượng,kị gặp tỉ kiếp. Trong tứ trụ gặp được thương, đinh hỏa lộ ra càng rõ càng tốt, kị gặp ấn thụ chế ngự làm cho bị thương tổn."

Muốn hiểu được đúng câu này thì longkiet hãy cố gắng đọc và hiểu câu ngay phía dưới câu này như sau:

"Ngày Giáp sinh tháng Dậu là cách Chính quan. Mừng Thân vượng lộ Quan gặp Tài, kỵ gặp Thất sát làm thương tổn Quan. Thân yếu phải gặp sinh phù, tuế vận cũng thế".

Bởi vì trong một cuốn sách tác giả không thể viết câu này lại Chửi câu kia được, đơn giản như vậy thôi.

Còn sau đây là một câu trong "Chương 32 : Luận Chính Quan thủ vận" của cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" của Từ Nhạc Ngô:

"Nguyên văn:
Như Chính quan thủ vận, tức lấy Chính Quan cách làm gốc phân ra từng trường hợp để phối luận. Chính quan mà dụng Tài Ấn, Thân hơi nhược thì áp dụng trợ giúp Thân (tức dụng Ấn hoá Quan vượng), hành vận phải vào chỗ vượng của Ấn; Quan hơi nhẹ (khinh) thì trợ Quan (tức dụng Tài sinh Quan), hành vận cũng phải ở nơi sinh Quan..."

Thiết nghĩ chỉ cần 1 câu này cũng đủ cho mọi người biết ý của tác giả Trầm Hiếu Chiêm, còn ý của người bình thì khỏi phải nghi ngờ.

Sửa bởi VULONG777: 01/02/2014 - 03:38


#45 longkiet

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 106 thanks

Gửi vào 01/02/2014 - 04:51

Vậy bác VULONG muốn hiểu đúng câu bác vừa nêu trên thì hãy cố gắng và đọc kỹ (để hiểu) câu tiếp (và có lẽ là toàn bộ những câu thuộc chương này) theo ngay phía dưới câu bác vừa nêu:
"Ngày giáp sinh tháng tuất là tạp khí. Can lộ mậu thổ là cách thiên tài, lộ tân kim là cách chính quan, lộ đinh hỏa là cách thương quan. Nếu không lộ gì thì tùy đó mà lấy cách. Trong tứ trụ mừng gặp tài, mậu thổ gặp tài lâm kiến mà vượng. Trong tứ trụ mừng gặp quan, tân kim lộ tháng kim sẽ sinh quan uy. Trong tứ trụ gặp được thương, có đinh hỏa lộ thương quan sẽ thông đến gốc, làm cho thế của cách mạnh và tốt".
Sao kì vậy bác VULONG, rõ ràng Giáp sinh tháng tuất là vô khí thân nhược sao không thấy tác giả đá động gì đến ấn kiêu tỉ kiếp để Thân được nhờ mà còn xúi bậy nên gặp thêm quan, thương để cho thế của cách mạnh và tốt, dù biết rằng như thế Thân sẽ càng nhược ?

Trích dẫn

Nguyên văn:
Như Chính quan thủ vận, tức lấy Chính quan làm gốc (chứ không phải Thân làm gốc à nhen!.LK) trường phân ra từng trường hợp để phối luận. Chính quan mà dụng Tài Ấn, thân hơi nhược thì áp dụng trợ giúp thân (tức dụng Ấn hóa Quan vượng), hành vận phải vào chổ vượng của Ấn; Quan hơi nhẹ (khinh) thì trợ Quan (tức dụng Tài sinh Quan), hành vận cũng phải ở nơi sinh Quan. Nếu Quan thấu lộ thì không thể gặp hợp, cũng không thể hỗn tạp Sát và không thể nhiều Quan. Địa chi tàng Quan gặp hình xung, thì không chỉ Quan cách mà cách cục khác cũng bất lợi.
"Chính quan mà dụng tài ấn, thân hơi nhược thì áp dụng trợ giúp thân..."
Bởi, trong trường hợp này Thân là hỉ của cách chính quan nên thân cần phải vượng để thành cách cao đấy Bác ạ..

Sửa bởi longkiet: 01/02/2014 - 04:57







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |