Với ví dụ trên là ví dụ đầu tiên đã khẳng định Chi có thể sinh cho Chi
ít nhất (Min) 0,09 đv trong vùng tâm. Sau đó cũng ví dụ này tôi đã thử cho
Chi sinh cho Chi cũng theo tỷ lệ ½ và 1/3 giống như Can Chi cùng trụ sinh cho nhau và thấy tỷ lệ này đã đúng cho một số ví dụ nhưng chưa thể khẳng định là tỷ lệ sinh này có phải là
cao nhất (Max) hay không?
Sau đây là ví dụ số 154 trong cuốn
“Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ ở
“Chương 27 : Luận phân biệt hỷ kị của can và chi“ như sau:
“
154 – Mậu Ngọ / Ất Mão / Nhâm Tý / Canh Tý
Bính Thìn - Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi - Canh Thân -Tân Dậu -Nhâm Tuất
Sinh năm Thanh - Hàm Phong thứ 8, ngày 6 tháng 2 giờ Tý, là mệnh của Khương Hữu Vi
(1858-1927). Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù,
có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần. Ngọ vận xung Tý, chỉ nhất xung mà tạo ra lưỡng xung, Hỉ thần xung kị,
danh tiếng nổi như cồn. Kỷ Mùi can chi đều thổ, đúng là Kỷ có tác dụng trợ Sát chế Nhận, nhưng Mùi vận hội Mão hóa mộc, hỷ hóa thành kị, Thươngượng. B quan động thành chế Sát. Chính biến Mậu Tuất (1898) **, 41 tuổi nhập ngay Mùi vận, may mắn lưu niên Mậu Tuất cát nên tưởng chết mà lại chạy thoát“.
Vì mục đích là muốn xác định chính xác tỷ lệ sinh của Chi cho Chi nên ở đây ta chỉ cần biết Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược cái nào phù hợp với thực tế đã diễn ra với ví dụ này là đủ.
Ta thấy Thân mang hành Thủy mà vận Mậu Ngọ người này
“…danh tiếng nổi như cồn…“ đủ để ta xác định Tứ Trụ này phải có
Thân vượng. Bởi vì can chi Mậu và Ngọ của đại vận mang hành của Tài Quan (tức các hành áp chế Thân) khi tác động tới các can chi trong Tứ Trụ không hề có sự hợp hóa gì cả nên nó vẫn giữ nguyên hành của chúng.
Khi đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng rồi thì bước tiếp theo ta xác định điểm hạn và điểm vượng của các hành trong vùng tâm.
Sau đây là sơ đồ xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm của tôi:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Theo sơ đồ trên nếu ta lấy tỷ lệ sinh của
Chi sinh cho Chi là 1/2 và 1/3 thì ta thấy Thân (Thủy) có 14,28 đv không lớn hơn Thực Thương (Mộc) 1 đv nên Thân là nhược, do vậy nó không phù hợp với thực tế của ví dụ này.
Ta thấy Mộc chỉ cần giảm đi 0,05 đv còn 13,33 đv - 0,05 đv = 13,28 đv thì Thân lớn hơn Mộc đúng 1 đv nên Thân đã trở thành vượng (theo lý thuyết của tôi).
Như vậy thì rõ ràng tỷ lệ sinh 1/2 và 1/3 không đúng, do vậy nó không thể là 1/2 và 1/3 mà còn phải giảm nữa thành 1/3 và 1/5 hay 1/4 và 1/7… chẳng hạn (theo tỷ lệ số sau bằng số trước nhân với 2 rồi trừ đi 1 như: 3 bằng 2.2 -1; 5 bằng 3.2 – 1; 7 bằng 4.2 -1).
Vì tính chất đối xứng trong Vũ Trụ và trong Tử Bình nên ta có thể khẳng định rằng nếu Chi sinh được cho Chi thì Can cũng phải sinh được cho Can.
Do vậy ta thử áp dụng tỷ lệ sinh là 1/3 và 1/5 cho cả can và chi xem sao:
1 - Tý trụ ngày có 7,05 đv sinh được cho Mão trụ tháng 1/5 đv của nó là 7,05.1/5 đv = 1,41 đv. Mão trụ tháng có 9 đv nhận thêm 1,41 đv thành 10,41 đv nhưng số đv này bị giảm 1/9 vì bị Canh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10,41.9/10 .3/5 đv = 5,62 đv.
2 - Nhâm trụ ngày có Canh trụ giờ mang hành sinh cho nó nên nó sinh được cho Ất trụ tháng 1/3 đv của nó là 3.1/3 đv = 1 đv. Do vậy Ất trụ tháng có 9 đv được thêm 1 đv thành 10 đv nhưng bị giảm 1/5 đv do bị Canh trụ giờ khắc cách 1 ngôi còn 10.4/5 đv = 8 đv.
(Chú ý: Chi hay Can chủ sinh và Chi hay Can được sinh ở đây không được bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp).
Vậy thì điểm vượng trong vùng tâm của Mộc là 5,62 đv + 8 đv = 13,62 đv. Ta thấy Thân vẫn nhược nên tỷ lệ sinh này vẫn chưa đúng.
Ta thử tiếp cho tỷ lệ sinh là 1/4 và 1/7 xem sao:
Sau khi tính toán tương tự như trên ta thấy điểm vượng của Mộc trong vùng tâm là 5,4 đv + 7,8 đv = 13,2 đv. Số điểm này đã làm cho Thân trở thành vượng phù hợp với thực tế.
Do vậy với ví dụ này đã chứng minh được khả năng của Chi sinh cho Chi và Can sinh cho Can cao nhất (Max) là 1/4 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/7 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi Can hay Chi sinh và được sinh không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.
Tỷ lệ này theo tôi có thể còn được giảm hơn nữa nếu ta lại tìm thấy một ví dụ nào đó có thể chứng minh được như ví dụ này.
Nhân tiện đây ta thử phân tích xem tác giả luận ví dụ này đúng sai ra sao:
Tác giả viết:
“Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù,
có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần.“
Rõ ràng ý của tác giả đã khẳng định Mậu (Thổ) là dụng thần nên mới phải luận như vậy để cho Mâu dụng thần không bị thương tổn thì mới có thể đúng cho vận Mậu Ngọ
“danh tiếng nổi như cồn“. Nhưng thực chất có đúng như vậy không? Ở đây rõ ràng ta thấy Mậu bị khắc gần bởi Ất nên Mậu làm sao chế được Thủy nữa, với lại Ất Mộc nắm lệnh quá đủ vượng thì làm sao bị trôi dạt do Thủy nhiều mà cần đến Thổ để chế Thủy.
Theo phương pháp của tôi thì ở đây Thực Thương (là nhiều) ngang ngửa với Thân nên Sát không có tác dụng khi làm dụng thần mà dụng thần phải là Tài thì mới chính xác. Do vậy vào vận
Mậu Ngọ Hỏa và Thổ đều cường vượng đủ sức áp chế Thân vượng nên mới
“danh tiếng nổi như cồn“ như vậy.
Nói chung tất cả các sách cổ và ngay cả hầu hết các cao thủ Tử Bình bây giờ đều mắc sai lầm như tác giả này.
Để chứng minh thêm cho nhận định này ta xét thêm ví dụ số 8 trong
“Chương 8 : Luận dụng thần“ trong cuốn
"Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" mà Hjmama đã đưa ra như sau:
“
Mậu tuất - Kỷ mùi - Bính tý - Canh dần
Hành vận: Canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý / ất sửu
Bính hỏa sanh tháng 6, lửa còn chút sáng, giờ gặp Dần mộc,
Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược. Nguyệt lệnh Kỷ thổ Thương quan thấu ra, bát tự liên tiếp 4 thổ, tiết khí thái quá,
lấy tài tiết thương làm dụng, cũng là
để ức chế cái mạnh thái quá. Là trụ của Lý Quân ở Hợp Phì“.
Sau đây là sơ đồ xác định thân vượng hay nhược và dụng thần của tôi:
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tác giả viết:
“Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược“. Ta thấy nếu Tý thủy sinh được cho Ấn là Dần trụ giờ thì Tý không khắc được Bính Nhật can và Canh không khắc được Dần cùng trụ hay sao?
Vậy thì Dần làm sao sinh được cho Bính?
Ở đây rõ ràng tác giả dựa vào câu
“3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ làm
bùa chú cho mình. Do vậy khi thấy Nhật can Bính có chi Dần là kết luận luôn Thân vượng và dĩ nhiên khi đã kết luận như vậy thì tác giả phải
“Đẽo, Gọt“ cho nó phải đúng như kết luận của mình mà thôi.
Thực chất của vấn đề là Tý bị Mùi khắc gần nên Tý không thể sinh được cho Dần và Tý cũng không thể khắc được Bính cùng trụ. Do vậy Bính nhật can không bị khắc nên khắc được Canh trụ giờ. Canh trụ giờ bị khắc gần nên nó không thể khắc được Dần cùng trụ. Nhưng mặc dù Bính và Dần không bị thương tổn
(đó là điểm cực đẹp của ví dụ này – vì hỷ dụng thần không bị thương tổn) nhưng điểm vượng trong vùng tâm của nó thấp nhiều so với Thổ nên
Thân phải là nhược. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Ất tàng trong Mùi trụ tháng (vì Ất vượng hơn Giáp).
(Đừng có nghĩ rằng Sửu là đất ướt nên không chế ngự được Tý thủy bởi vì thực tế đất của các con đê có chứa nước bên trong hay không mà nó vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ?)
Vì tác giả không cho biết tốt xấu của các vận nên đành phải dừng ở đây.
__________________
Sửa bởi VULONG777: 30/01/2014 - 21:43