Trời ơi, là sao? Luận 1 hồi chắc bị loạn luôn quá.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
maianha, on 28/07/2016 - 14:40, said:
Bát tự hợp hóa thành công rồi ta sẽ xét tiếp là hóa chân hay hóa giả. Hóa chân thì người đó phú quí đến bậc công hầu khanh tướng, nhưng đâu dễ mấy ai được chân hóa như thế, đa phần nhân gian đều rơi vào giả hóa với nhiều lý do : nhật chủ cô nhược mà có sinh phù, vì hợp thần không chân mà nhật chủ có gốc, vì hợp thần hư nhược không đủ sức hấp dẫn nhật chủ, vì hóa thần khí không đủ hoặc đủ mà nhàn thần đến làm tổn thương, ... Vậy bát tự giờ mậu thìn sau khi vào vòng chung kết (hợp hóa thành công) liền bị loại ngay ở vòng chân, giả. Muốn đạt chân phải khử mùi, dụng Mão bán hợp mùi, hoặc chữ hợi kèm theo ất (chứ không phải hiểu theo ý ThienKhanh là dụng mộc đại trà). Nhưng cho dù có đạt hóa chân đi nữa (thân thái vượng dụng tiết) thì cách cục cũng bị phá bởi trụ năm nhâm thân như bài luận trên của tôi.Tóm lại mệnh này vận vào đúng như 2 câu thơ "Đã mang lấy nghiệp vào thân- cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa" của cụ Nguyễn Du.
- Nếu hợp hóa không thành công thì lấy nhật can làm thể, dụng vượng suy pháp luận : Thân vượng lấy mộc làm dụng, hỉ thủy. Nhưng thực tế vận thủy là hung vận mang nhiều tai ương nên hợp hóa này đúng là phải thành công.
mai an hạ.
Phía trên bác luận nhật chủ có gốc thì cản trở quá trình hoá. (1)
maianha said:
Cách cục hóa thổ trên đâu hẳn là kị mộc : mộc trợ Giáp (hợp thần) mạnh lên để tăng lực hợp, đồng thời khắc Kỉ để Kỉ toàn tâm hóa, ý đồ cao nhất là buộc Kỉ phải hóa để phục vụ cho hình tượng khí cục (hóa thổ),chứ có phải lấy nhật can làm thể tượng đâu mà sợ Sát, lại nữa mộc sẽ trợ hỏa (hỏa cũng là một loại dụng thần). Có sợ chăng là trong một điều kiện thích hợp nào đó mộc sẽ trở mặt khắc hóa thần thôi.
Ở đây bác luận hợp thần Giáp mộc cần có gốc để thu hút nhật chủ đến hợp. (2)
maianha said:
Đúng là mậu thìn không thể chế hóa được nhâm thìn, song ngược lại có lúc nhâm thìn lại gây khốn đốn làm suy yếu chất thổ của mậu, như trong trường hợp lá số giờ thìn này vì nguyệt lệnh thìn thấp nên mậu đâu thể mạnh mẽ kiên cố (như tuất nguyệt lệnh) huống chi cục thủy vượng lại hành vận gặp thủy thay vì gặp hỏa thì hay biết mấy. Nhân đây xin phép tôi phải đính chính một phần trong bài luận trước rằng tai ương không phải vì mậu đoạt tài nhâm mà vì nhâm đại diện thủy thấu can phá cách hóa khí.
Ở đây bác luận thuỷ là phá cục hoá khí. Tức thuỷ là kỵ thần. (3)
maianha said:
Cho dù mệnh này có được khai thông bệnh giả hóa đi nữa vẫn còn một bệnh xem ra không nhẹ, đó là khi ấy hóa thần thổ quá vượng phải dụng kim tiết nhưng kim này (thân) lại tải nhâm thấu lên (trụ năm) để mậu trụ giờ kiếp đoạt gây nên cảnh tương chiến thổ thủy.
Ở đây bác luận thổ quá vượng cần tiết khí, tức thổ vượng là kỵ thần, hoặc tối thiểu là dụng thần không hoàn bị. (4)
----- Điểm thứ 1-----
(1) + (2) Như vậy rốt cuộc mộc là hỷ hay là kỵ? Ở (2) bác kêu nếu có mộc trợ Giáp tăng lực hợp thì là tốt. Như vậy tôi nói Giáp cần có căn khí, tức cần Dần Mão Hợi chứ không cần thấu thêm Giáp Ất là đúng chứ? Vậy nếu có chi Dần, Mão, trong bát tự hoá thổ cách thì theo Thiệu Vỹ Hoa, Dần Mão là kỵ thần, chứ không phải hỷ thần. Bác lại nói là hỷ thần.
Vậy cuối cùng Dần Mão là hỷ hay kỵ?
Còn nếu gốc Giáp lấy từ chi Hợi, bác đã luận ở (3) là thuỷ là kỵ. Vậy Hợi đầu tiên phải là kỵ thần, không phải hỷ thần.
Đề nghị bác làm rõ chỗ này.
-----Điểm thứ 2-----
Ở (4) bác nói hoá khí thổ vượng, cần dụng kim tiết, tức thổ vượng là kỵ, hoặc tối thiểu là dụng thần không hoàn bị. Tức là thổ không phải càng vượng càng tốt trong mọi trường hợp.
Vậy ở (3) bác lại nói thấu Nhâm thuỷ là phá cách, tức thuỷ là kỵ. Thuỷ thổ tương chiến thì thổ cũng sẽ bị mất sức. Thêm nữa thổ là kỵ thì kim thuỷ hao tiết thổ đều phải là hỷ chứ. Sao bác luận thuỷ thấu phá cục? Thiệu Vỹ Hoa trong phần hoá khí cách, chỉ đề cập đến Quan Sát của hành hoá ra cản trở hoá khí, chứ không đề cập đến Tài của hành hoá ra cản trở hoá khí.
Tương tự, ở 3 bác nói "gây cảnh tương chiến thổ thuỷ". Nếu bác luận thuỷ là kỵ, vậy càng cần phải chiến. Thổ càng vượng, khắc thuỷ càng dữ càng tốt, vì thuỷ là kỵ, càng bị khắc thì càng cát. Chiến này đáng mừng chứ làm sao lại đáng lo?
Vậy cuối cùng Thuỷ là hỷ hay là kỵ? Thổ là hỷ hay là kỵ?
---------------------------------------------
Còn về sách của Thiệu Vỹ Hoa, phần hoá khí, tôi trích nguyên văn phần dịch:
1) Nhật can ngũ hợp với can bên cạnh (can tháng hoặc can giờ) hoá thành cục có ngũ hành khác với ngũ hành nhật chủ.
2) Trong mệnh cục ngũ hành vừa ngũ hợp thành, tạo nên chuyện cục vượng.
3) Ngũ hành của hoá thần giống với ngũ hành chi tháng.
4) Hỷ thần thực, thươg làm xì hơi thế vượng của nó.
Ông Thiệu đã nói rất rõ là ngũ hành. Bác luận hoá cách, không phải độc vượng, tức là bác cho rằng nhật chủ Kỷ âm thổ hoá thành Mậu dương thổ. Còn nếu nó không hoá dương thổ thì nó không đáp ứng điều kiện số 1.
Vậy là bác luận thập hành, chứ đâu có phải luận ngũ hành. Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý: thập hành. Tôi thấy hoàn toàn không ổn.
Còn các vị dụ mà bác đề cập, 3 ví dụ nhật chủ Giáp hợp Kỷ hoá thổ, đúng là có 1 ví dụ nhật chủ Kỷ hợp Giáp hoá, được cho là hoá cục. Chỗ này tôi không đồng ý. Tức là ngay ông Thiệu cũng tự mâu thuẫn bản thân, tiền hậu bất nhất. Tôi cho là đây là điểm thiếu sót trong quá trình biên soạn, chứ tôi không chê ông trình độ ông Thiệu. Quyển sách đó do Trần Viên viết là chủ yếu.
Thêm nữa, tôi nhớ không lầm ở topic luận Vòng Trường Sinh, bác có đề cập bác đã bỏ không dùng vòng trường sinh, mà dụng tiến khí, thoái khí. Theo tôi, bản chất của việc sử dụng tứ thời vượng tướng, thay vì vòng Tràng Sinh, để xác định lượng khí tiên thiên (nguyên khí) của từng thiên can, chính là phản ánh cách nhìn Mậu Kỷ đều thuộc 1 hành, đồng sinh cộng tử.
Còn cách sử dụng vòng Tràng Sinh, tức là phân Mậu Kỷ 2 hành, âm tử dương sinh.
Bản thân tôi thấy sử dụng vòng Tràng Sinh là không đúng với Tứ Thời. Đối với tôi, khái niệm Tứ Thời là 1 khái niệm vô cùng cổ lão, là một trong những trụ cột, chỉ có đúng chứ không có sai. Tứ Thời mà sai thì các môn bói toán dẹp hết cho khoẻ. Do đó dùng vòng Tràng Sinh xác định nguyên khí là có sơ hở. Thành ra tôi không sử dụng.
Trở về vấn đề bát tự giờ Thìn. Luận nguyên khí thì bác bỏ vòng Trường Sinh, cho là Mậu Kỷ đồng khí liên chi, cùng sinh cùng tử. Sang hoá khí cách, bác lại tách ra Mậu Kỷ 2 hành. Là làm sao? Tôi thật sự không hiểu.
--------
Tôi thấy để tiết kiệm thời gian, nhờ bác Maianha khẳng định đây là cách cục gì (hoá khí, bác đã nói rồi). Đối với cách cục này thì hành nào là hỷ, là kỵ cụ thể. Nếu là hỷ thần không hoàn bị, tức có trường hợp nó là kỵ, không phải hỷ, nhờ bác nói luôn nó là gì. Ví dụ mộc là không hoàn bị, vậy Giáp, Ất, Dần, Mão, Mùi, Thìn, Hợi cái nào là hỷ, là kỵ. Nếu bác sợ lòi chiêu thì nói thôi, không cần giải thích cũng được.
Sửa bởi ThienKhanh: 29/07/2016 - 14:55