Trong chủ đề “Trăm năm mệnh lý què quặt – tác giả Vương Khánh ” do Durobi dịnh bên trang web “Kim Tử Bình” ở mục “Bàn luận tổng quát” tại trang 12 đã viết :
“1. Tỉnh ngộ
Học mệnh 15 năm, nghi hoặc và tìm kiếm mất đủ 11 năm, khoảng thời gian sung sức nhất đời người thế là lãng phí mất. Tôi (VK) vẫn còn may, hãy còn chưa bị hói hết tóc thì thấy ánh sáng cuối đường hầm của mệnh học…..
……………………………………..
4. Giới thiệu đôi nét về vượng suy pháp và cách cục pháp
Vượng suy pháp chính là lấy nhật chủ làm trung tâm, định ra sự vượng suy cường nhược của nhật chủ và thập thần, sau đó dùng phép tắc cân bằng định ra hỉ kỵ, đoán cát hung.
Cách cục pháp luận mệnh dùng chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm (thần nắm lệnh của tháng là chủ khí của trời, thập thần tích cực nổi trội nhất trong thiên can là chủ khí của đất).
……………………………………
Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh.
Cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh.
Trên thực tế là sự khác biệt cực lớn của 2 loại nhân sinh quan, nhân sinh lấy "ta" làm trung tâm, hay là lấy "tự nhiên trời đất" làm trung tâm.
………………………….. ”.
Qua đoạn trích dẫn này cho thấy Vương Khánh đã coi:
“Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh”, tức chỉ lấy hành của can ngày – Nhật chủ để luận.
“Cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh”, tức lấy “hành của lệnh tháng là chủ khí của trời“ và hành của “thiên can nào thấu lộ nổi trội nhất làm chủ khí của đất“.
Vậy thì ở đây Vương Khánh mới đề cập tới nhiều nhất là 3 hành, còn 2 hành nữa thì sao ? Chả nhẽ trong 5 hành thì chỉ có 2 hành là của “Đất và Trời“ còn 3 hành kia không phải của “Đất và Trời“ ?
Rõ ràng đây là một cách nhìn “Thiển Cận“ và “Ấu Trĩ“ vô vùng của Vương Khánh.
Đấy là chưa xét đến hành nắm lệnh hay hành của thiên can nổi trội có mấy khi là hành thống trị trong Tứ Trụ (tức hành mạnh nhất trong 5 hành) và lại càng hiếm trường hợp Nhật can phải Tòng theo 2 hành này. Cho nên theo tôi Ta làm trung tâm hay Đất Trời làm trung tâm không có ý nghĩa gì cả mà cả 5 hành đều phải là của Đất và Trời thì mới đúng theo nghĩa thực sự của nó.
Lệnh tháng chỉ có tác dụng xác định độ vượng suy của các can chi trong Tứ Trụ theo tháng đó mà thôi. Nhật can được xác định là hành và vị trí của người có Tứ Trụ đó thì phải xét sự tác động của tất cả các can chi khác trong Tứ Trụ đó lên hành này ở tại vị trí này thì mới có thể biết nó vượng hay nhược so với 4 hành còn lại. Từ đây mới có khái niệm Thân vượng hay nhược của từng Tứ Trụ khác nhau so với 4 hành còn lại.
Khi đã biết Thân vượng hay nhược so với 4 hành kia thì mới xác định được hỷ kỵ của các hành, sau đó khi vào tuế vận thì từ sự tác động qua lại giữa các can chi trong Tứ Trụ và tuế vận với nhau mới có thể dự đoán cát hung được. Nói đơn giản là Can Chi của cả 5 hành đều là Trời Đất đã tác động với nhau mà Ta chỉ là 1 hành trong 5 hành này mà thôi. Cho nên xét cát hung của Ta là xét sự tác động của cả 5 hành với Ta chứ không phải chỉ xét 2 hành như Vương Khánh nói (hành lệnh tháng và hành của thiên can nổi trội) tới Ta như vậy.
Qua bài viết này tôi hy vọng các bạn mới nhập môn Tử Bình sẽ tránh được cách nhìn Thiển Cận và Ấu Trĩ của Vương Khánh
Sau đây là 6 yếu tố bắt buộc cho bất kỳ một "Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược" nào muốn thành công là :
1 - Phải xác định được chính xác điểm vượng của các can chi trong Tứ Trụ theo lệnh tháng.
2 - Phải xác định các tổ hợp trong Tứ Trụ hoá hay không hoá (điều này là khó nhất vì nó liên quan tới sự tranh phá hợp giữa các địa chi, giữa các tổ hợp và các Thiên Khắc Địa Xung... cũng như khi nào nó hoá cục được còn khi nào thì không ?).
3 - Phải xác định được các can chi trong Tứ Trụ khắc gần, trực tiếp và xa bị giảm ra sao ?
4 - Phải xác định được sự sinh của các can với can, chi với chi và giữa can chi trong cùng trụ với nhau như thế nào ?
5 - Phải triệt tiêu được sự xa hay gần của các can chi trong Tứ Trụ so với Nhật can.
6 - Phải xác định được các trường hợp hành của Kiêu Ấn sinh được cho hành của Thân.
Sửa bởi VULONG777: 17/06/2016 - 05:14